Nghị luận xã hội: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Số trang: 8
Loại file: doc
Dung lượng: 154.00 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Chinh phụ ngâm lời than vãn của người phụ nữ có chồng đi đánh trận đã thể hiện được tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ. Qua nỗi niềm và tâm trạng cô đơn, tủi hờn của người chinh phụ, tác phẩm đã nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Mời quý bạn đọc tham khảo tài liệu Nghị luận xã hội: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghị luận xã hội: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ BÀI VĂN MẪU LỚP 10Đề bài: Nghị luận xã hội Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ1. Chinh phụ ngâm nguyên văn bằng chữ Hán, do Đặng Trần Cônsáng tác. Bản Nôm hiện hành, nhiều ý kiến thống nhất, là của dịchgiả Đoàn Thị Điểm. Trước cảnh chiến tranh liên miên đầu thế kỉXVIII, cảm động trước thời thế, Đặng Trần Côn đã viết Chinh phụngâm. Qua nỗi niềm và tâm trạng cô đơn, tủi hờn của người chinhphụ, tác phẩm đã nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phinghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu, hạnh phúclứa đôi. Bản dịch đã thể hiện tài năng của tác giả và dịch giả trongviệc thể hiện những trạng thái tâm lí vô cùng tinh tế và phức tạpcủa người vợ nhớ chồng.* Về bản dịch Chinh phụ ngâm hiện có tất thảy bảy bản dịch vàphỏng dịch bằng các thể song thất lục bát (bốn bản) và lục bát (babản) của các dịch giả : Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, Bạch LiênAm Nguyễn và hai tác giả khuyết danh, nhưng chưa biết bản dịchnào của ai. Riêng bản dịch thành công nhất và được phổ biến rộngrãi xưa nay, thể song thất lục bát, 412 câu (bản in chữ Nôm cũ hiệncòn (1902), hoặc 408 câu (một bản khác lưu tại thư viện Pa-ri) cóngười cho là của Đoàn Thị Điểm, có người cho là của Phan HuyÍch.(Nguyễn Lộc, Từ điển văn học, tập I, Sđd)* So bản dịch của bà với bản chữ nho thì thấy văn dịch rất sát nghĩanguyên văn mà lời văn êm đềm, ảo não, rõ ra giọng một người đànbà buồn bã, nhưng có vẻ thê lương hơn là vẻ đau đớn, không đếnnỗi réo rắt, sầu khổ như giọng văn cung oán, thật là lời văn hợpcảnh vậy. Bản dịch viết theo thể song thất. Có nhiều đoạn đặttheo lối liên hoàn, những chữ cuối câu trên láy lại làm chữ đầu câudưới, cứ thế đặt dài tới mấy câu, thật hợp với tình buồn liên miênkhông dứt của người chinh phụ.(Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, 1950)2. Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh quyền quý, nàng tiễnchồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập công danh nơiyên ngựa và trở về trong cảnh vinh hoa. Thấm nỗi cô đơn lẻ loi,nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang đi qua và hạnh phúc lứa đôingày càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn cùngcực. Khúc ngâm thể hiện tâm trạng cô đơn ấy của người chinh phụ.Đoạn trích miêu tả tâm trạng lẻ loi của người chinh phụ trong cảnhchờ chồng.Đầu đời Cảnh Hưng, chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê Mạcđánh nhau đến Trịnh Nguyễn kéo dài cuộc phân tranh, đất nướcchia làm hai nửa dưới cái ngai vàng mục ruỗng, rồi khởi nghĩa nôngdân nổ ra khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh nồi da nấu thịt, loạnli chinh chiến, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tậptrung phản ánh bản chất thối nát, bộ mặt tàn bạo của chế độ phongkiến và nỗi đau khổ của con người những nạn nhân của chế độ xãhội ấy. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sựđồng cảm của rất nhiều nho sĩ. Nhiều bản dịch Chinh phụ ngâm rađời, trong đó bản dịch được cho là của Đoàn Thị Điểm là bản dịchthành công hơn cả vì dịch giả đã gặp được ở đó sự đồng cảm sâusắc.Hình tượng nổi bật của Chinh phụ ngâm là hình tượng người chinhphụ héo mòn trong trông ngóng chờ đợi. Người chinh phụ hiện lêntrong khúc ngâm với ước vọng công hầu và khát khao hạnh phúclứa đôi. Được nuôi dưỡng trong nền giáo dục Nho gia, người phụnữ quý tộc phong kiến cũng từng mong ước, tự hào về hình ảnhmột người chồng dũng mãnh :Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệtXếp bút nghiên theo việc đao cungThành liền mong tiễn bệ rồngThước gươm đã quyết chẳng dong giặc trờiChí làm trai dặm nghìn da ngựaGieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng maoThế nhưng sau những ngày mỏi mòn chờ chồng trong tuyệt vọng,nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng và cất lời oán trách. Quatâm trạng của người thiếu phụ, khúc ngâm là tiếng nói oán tráchchiến tranh phong kiến đã giày xéo lên hạnh phúc lứa đôi.Chinh phụ ngâm là một tác phẩm trữ tình, từ đầu đến cuối tác phẩmvẫn chỉ là tâm trạng của nhân vật trữ tình người chinh phụ. Khúcngâm được phát triển theo mạch tâm trạng và nỗi nhớ nhung củangười chinh phụ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụđã bao quát được những trạng thái tâm trạng của người chinh phụ.Nội tâm đầy biến động được diễn tả qua những từ ngữ chỉ ngoạihình, tả hành động, tả việc làm của người chinh phụ. Người thiếuphụ trong Khuê oán của Vương Xương Linh vẫn vô tư trang điểmmá hồng để lên lầu biếc ngắm cảnh xuân, chỉ khi ngắm màu dươngliễu mới bừng tỉnh và nhận ra cảnh ngộ cô đơn của mình ; cònngười chinh phụ này luôn chìm đắm trong nỗi cô đơn. Sự trông đợimỏi mòn và vô vọng đã khiến nàng trễ nải cả việc điểm phấn tôson, công việc quan trọng nhất của người phụ nữ nơi gác tía lầu sonnhư nàng :Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.Nỗi đau buồn của người thiếu phụ trong cảnh đợi chồng đi chiếntrận đã khiến nàng mất hết sức lực, như người mộng du trong ngôinhà của mình :Há như ai hồn say bóng lẫn,Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.Sự chờ đợi vô vọng đã khiến nàng tê liệt cả tinh thần. Với việcmiêu tả dáng vẻ bề ngoài, tác giả đã lột tả được trạng thái tâm líphức tạp trong nội tâm của người thiếu phụ. Người thiếu phụ hiệnlên với vẻ mệt mỏi và buông xuôi, nỗi cô đơn đã giày vò cả tâmthần và thể xác của người thiếu phụ khiến nàng nhạt phấn phaihương. Nỗi cô đơn bao trùm cả lên không gian và thời gian, ngàyvà đêm. Trong và ngoài căn phòng đều tràn ngập nỗi cô đơn. Chỉ cóngười thiếu phụ đối diện ngọn đèn, tình cảnh lẻ loi càng hiện rõhơn. Cái vẻ lẻ loi tội nghiệp ấy hiện lên thật rõ ràng với hình ảnh :Dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcGiữa cái không gian tĩnh mịch của đêm, tiếng bước chân chậm rãinhư gieo vào lòng người cái âm thanh lẻ loi cô độc. Pu-skin trêncon đường mùa đông vắng vẻ, cô đơn hơn bởi tiếng lục lạc đơnđiệu thì người chinh phụ cô đơn hơn khi nghe tiếng bước chân củamình. Nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khaokhát có sự đồng cảm. Nhưng chỉ có ngọn đèn đối ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghị luận xã hội: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ BÀI VĂN MẪU LỚP 10Đề bài: Nghị luận xã hội Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ1. Chinh phụ ngâm nguyên văn bằng chữ Hán, do Đặng Trần Cônsáng tác. Bản Nôm hiện hành, nhiều ý kiến thống nhất, là của dịchgiả Đoàn Thị Điểm. Trước cảnh chiến tranh liên miên đầu thế kỉXVIII, cảm động trước thời thế, Đặng Trần Côn đã viết Chinh phụngâm. Qua nỗi niềm và tâm trạng cô đơn, tủi hờn của người chinhphụ, tác phẩm đã nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phinghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu, hạnh phúclứa đôi. Bản dịch đã thể hiện tài năng của tác giả và dịch giả trongviệc thể hiện những trạng thái tâm lí vô cùng tinh tế và phức tạpcủa người vợ nhớ chồng.* Về bản dịch Chinh phụ ngâm hiện có tất thảy bảy bản dịch vàphỏng dịch bằng các thể song thất lục bát (bốn bản) và lục bát (babản) của các dịch giả : Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, Bạch LiênAm Nguyễn và hai tác giả khuyết danh, nhưng chưa biết bản dịchnào của ai. Riêng bản dịch thành công nhất và được phổ biến rộngrãi xưa nay, thể song thất lục bát, 412 câu (bản in chữ Nôm cũ hiệncòn (1902), hoặc 408 câu (một bản khác lưu tại thư viện Pa-ri) cóngười cho là của Đoàn Thị Điểm, có người cho là của Phan HuyÍch.(Nguyễn Lộc, Từ điển văn học, tập I, Sđd)* So bản dịch của bà với bản chữ nho thì thấy văn dịch rất sát nghĩanguyên văn mà lời văn êm đềm, ảo não, rõ ra giọng một người đànbà buồn bã, nhưng có vẻ thê lương hơn là vẻ đau đớn, không đếnnỗi réo rắt, sầu khổ như giọng văn cung oán, thật là lời văn hợpcảnh vậy. Bản dịch viết theo thể song thất. Có nhiều đoạn đặttheo lối liên hoàn, những chữ cuối câu trên láy lại làm chữ đầu câudưới, cứ thế đặt dài tới mấy câu, thật hợp với tình buồn liên miênkhông dứt của người chinh phụ.(Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, 1950)2. Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh quyền quý, nàng tiễnchồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập công danh nơiyên ngựa và trở về trong cảnh vinh hoa. Thấm nỗi cô đơn lẻ loi,nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang đi qua và hạnh phúc lứa đôingày càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn cùngcực. Khúc ngâm thể hiện tâm trạng cô đơn ấy của người chinh phụ.Đoạn trích miêu tả tâm trạng lẻ loi của người chinh phụ trong cảnhchờ chồng.Đầu đời Cảnh Hưng, chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê Mạcđánh nhau đến Trịnh Nguyễn kéo dài cuộc phân tranh, đất nướcchia làm hai nửa dưới cái ngai vàng mục ruỗng, rồi khởi nghĩa nôngdân nổ ra khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh nồi da nấu thịt, loạnli chinh chiến, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tậptrung phản ánh bản chất thối nát, bộ mặt tàn bạo của chế độ phongkiến và nỗi đau khổ của con người những nạn nhân của chế độ xãhội ấy. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sựđồng cảm của rất nhiều nho sĩ. Nhiều bản dịch Chinh phụ ngâm rađời, trong đó bản dịch được cho là của Đoàn Thị Điểm là bản dịchthành công hơn cả vì dịch giả đã gặp được ở đó sự đồng cảm sâusắc.Hình tượng nổi bật của Chinh phụ ngâm là hình tượng người chinhphụ héo mòn trong trông ngóng chờ đợi. Người chinh phụ hiện lêntrong khúc ngâm với ước vọng công hầu và khát khao hạnh phúclứa đôi. Được nuôi dưỡng trong nền giáo dục Nho gia, người phụnữ quý tộc phong kiến cũng từng mong ước, tự hào về hình ảnhmột người chồng dũng mãnh :Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệtXếp bút nghiên theo việc đao cungThành liền mong tiễn bệ rồngThước gươm đã quyết chẳng dong giặc trờiChí làm trai dặm nghìn da ngựaGieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng maoThế nhưng sau những ngày mỏi mòn chờ chồng trong tuyệt vọng,nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng và cất lời oán trách. Quatâm trạng của người thiếu phụ, khúc ngâm là tiếng nói oán tráchchiến tranh phong kiến đã giày xéo lên hạnh phúc lứa đôi.Chinh phụ ngâm là một tác phẩm trữ tình, từ đầu đến cuối tác phẩmvẫn chỉ là tâm trạng của nhân vật trữ tình người chinh phụ. Khúcngâm được phát triển theo mạch tâm trạng và nỗi nhớ nhung củangười chinh phụ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụđã bao quát được những trạng thái tâm trạng của người chinh phụ.Nội tâm đầy biến động được diễn tả qua những từ ngữ chỉ ngoạihình, tả hành động, tả việc làm của người chinh phụ. Người thiếuphụ trong Khuê oán của Vương Xương Linh vẫn vô tư trang điểmmá hồng để lên lầu biếc ngắm cảnh xuân, chỉ khi ngắm màu dươngliễu mới bừng tỉnh và nhận ra cảnh ngộ cô đơn của mình ; cònngười chinh phụ này luôn chìm đắm trong nỗi cô đơn. Sự trông đợimỏi mòn và vô vọng đã khiến nàng trễ nải cả việc điểm phấn tôson, công việc quan trọng nhất của người phụ nữ nơi gác tía lầu sonnhư nàng :Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.Nỗi đau buồn của người thiếu phụ trong cảnh đợi chồng đi chiếntrận đã khiến nàng mất hết sức lực, như người mộng du trong ngôinhà của mình :Há như ai hồn say bóng lẫn,Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.Sự chờ đợi vô vọng đã khiến nàng tê liệt cả tinh thần. Với việcmiêu tả dáng vẻ bề ngoài, tác giả đã lột tả được trạng thái tâm líphức tạp trong nội tâm của người thiếu phụ. Người thiếu phụ hiệnlên với vẻ mệt mỏi và buông xuôi, nỗi cô đơn đã giày vò cả tâmthần và thể xác của người thiếu phụ khiến nàng nhạt phấn phaihương. Nỗi cô đơn bao trùm cả lên không gian và thời gian, ngàyvà đêm. Trong và ngoài căn phòng đều tràn ngập nỗi cô đơn. Chỉ cóngười thiếu phụ đối diện ngọn đèn, tình cảnh lẻ loi càng hiện rõhơn. Cái vẻ lẻ loi tội nghiệp ấy hiện lên thật rõ ràng với hình ảnh :Dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcGiữa cái không gian tĩnh mịch của đêm, tiếng bước chân chậm rãinhư gieo vào lòng người cái âm thanh lẻ loi cô độc. Pu-skin trêncon đường mùa đông vắng vẻ, cô đơn hơn bởi tiếng lục lạc đơnđiệu thì người chinh phụ cô đơn hơn khi nghe tiếng bước chân củamình. Nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khaokhát có sự đồng cảm. Nhưng chỉ có ngọn đèn đối ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Bài văn mẫu lớp 10 Bài văn mẫu Ngữ Văn 10 Bài làm văn mẫu Ngữ Văn Nghị luận xã hội Chinh Phụ Ngâm Tình cảnh lẻ loi người chinh phụ Đặng Trần CônGợi ý tài liệu liên quan:
-
Nghị luận về câu nói: 'Hãy cho tôi một điểm tựa. Tôi sẽ nâng bổng cả Trái Đất lên'
3 trang 1232 0 0 -
5 trang 703 5 0
-
Nghị luận về lối sống thụ động trong giới trẻ hiện nay
8 trang 492 0 0 -
Nghị luận xã hội về vai trò của sự trải nghiệm đối với tuổi trẻ
3 trang 411 4 0 -
7 trang 352 0 0
-
3 trang 237 1 0
-
Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh
8 trang 220 0 0 -
Trình bày suy nghĩ về quan điểm cần phải biết tôn trọng sự khác biệt
3 trang 217 0 0 -
Nghị luận xã hội về ước mơ và khát vọng
12 trang 216 0 0 -
3 trang 200 1 0
-
6 trang 197 0 0
-
3 trang 186 0 0
-
Bài văn mẫu: Nghị luận xã hội về tình bạn
3 trang 183 0 0 -
Nghị luận xã hội về khoảng lặng trong cuộc sống
4 trang 182 1 0 -
Suy nghĩ của bản thân về vấn đề 'tận hiến, tận hưởng' của thanh niên hiện nay
2 trang 178 0 0 -
2 trang 169 0 0
-
6 trang 165 0 0
-
69 trang 143 3 0
-
Nghị luận xã hội về câu nói: Kẻ biết người là người khôn, kẻ biết mình là người sáng
2 trang 141 0 0 -
4 trang 141 0 0