Danh mục

Nghị quyết của Quốc hội là văn bản Luật hay văn bản dưới luật?

Số trang: 15      Loại file: pdf      Dung lượng: 260.29 KB      Lượt xem: 26      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (15 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Theo quy định của pháp luật, Quốc hội có thẩm quyền ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) là Hiến pháp, luật và nghị quyết. Nếu Hiến pháp là văn bản thể hiện quyền lập hiến, luật là văn bản thể hiện quyền lập pháp của Quốc hội, thì nghị quyết không được xác định rõ là văn bản luật hay văn bản dưới luật. Hơn nữa, có những nghị quyết của Quốc hội dùng để quy định chế độ làm việc của Quốc hội hoặc dùng để phê chuẩn điều ước quốc tế1, song...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghị quyết của Quốc hội là văn bản Luật hay văn bản dưới luật? KHOA HỌC PHÁP LÝNghị quyết của Quốc hội là vănbản Luật hay văn bản dưới luật?Theo quy định của pháp luật, Quốc hội có thẩm quyền ban hànhcác loại văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) là Hiến pháp,luật và nghị quyết. Nếu Hiến pháp là văn bản thể hiện quyền lậphiến, luật là văn bản thể hiện quyền lập pháp của Quốc hội, thìnghị quyết không được xác định rõ là văn bản luật hay văn bảndưới luật. Hơn nữa, có những nghị quyết của Quốc hội dùng đểquy định chế độ làm việc của Quốc hội hoặc dùng để phê chuẩnđiều ước quốc tế1, song cũng có nghị quyết dùng để bổ sung, sửađổi Hiến pháp2. Thực tế này, cùng với những quy định thiếu chitiết của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008(Luật BHVBQPPL) có thể dẫn đến những cách hiểu khác nhautrong giới nghiên cứu pháp luật và cả trong thực tiễn áp dụngpháp luật.1. Quan niệm về lập hiến, lập pháp và lập quyTheo nghĩa đơn giản nhất, lập hiến là “làm Hiến pháp”, lập pháp là“làm luật”, còn lập quy là ban hành văn bản dưới luật, nhằm thi hànhHiến pháp và luật. Ở nước ta, quyền lập quy được xác định theohướng loại trừ3 vì ngoài những vấn đề cơ bản thuộc quyền lập pháp,việc cụ thể hóa những nội dung từ quyền lập pháp hoặc những nộidung còn lại đều thuộc quyền lập quy. Vì vậy, quyền lập quy phảituân thủ quyền lập pháp và các nội dung lập quy không được trái,không được tự ý thu hẹp hay mở rộng quyền lập pháp. Tuy nhiên,quyền lập quy có thể được giao về cho UBND cấp tỉnh trong nhữngtrường hợp thuộc quyền tự chủ của địa phương4. Vì lẽ đó, các nhànghiên cứu thường ít khi dùng khái niệm “quyền lập quy” để chỉ hoạtđộng ban hành văn bản dưới luật của cơ quan nhà nước khác ở trungương, ngoại trừ việc dùng cho cơ quan hành chính nhà nước là Chínhphủ. Thay vào đó, ta có thể dùng khái niệm “thẩm quyền ban hànhvăn bản dưới luật”. Theo quy định của pháp luật, Quốc hội Việt Namlà cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp5. Đây là thẩmquyền đặc thù của Quốc hội mà các cơ quan khác như Chính phủ, Tòaán nhân dân tối cao… không có. Tuy nhiên, điều này không có nghĩalà Quốc hội bị giới hạn ở quyền ban hành văn bản dưới luật bởi ngoàithẩm quyền lập hiến và lập pháp, Quốc hội còn rất nhiều nhiệm vụ,quyền hạn khác được quy định từ Khoản 2 đến Khoản 14 Điều 84Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001.Vì vậy, có thể nói, trong hoạt động ban hành VBQPPL, Quốc hội ViệtNam có ba tư cách: Quốc hội lập hiến, Quốc hội lập pháp và Quốc hộiban hành văn bản dưới luật.2. Nội dung của Hiến pháp, luật, nghị quyết do Quốc hội banhànhVề nội dung, Hiến pháp, luật và nghị quyết sử dụng để điều chỉnh cácmối quan hệ có tính chất, phạm vi khác nhau, cụ thể:Hiến pháp là VBQPPL có giá trị pháp lý cao nhất – đạo luật “mẹ”-quy định những vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước như: chế độ chínhtrị, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của côngdân, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan trongbộ máy nhà nước. Vì vậy, Hiến pháp còn được xem là “cam kết tốicao” của Nhà nước trước nhân dân. Đây là cơ sở để hình thành nênkhung pháp lý của quốc gia và là cơ sở để xây dựng các đạo luật. Tấtcả các VBQPPL đều phải tuyệt đối tuân thủ Hiến pháp. Ở nước ta, chỉcó Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp, việc sửa đổi phải đượcít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội tán thành (Điều 147Hiến pháp năm 1992).Bộ luật, luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vựckinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế,dân tộc, tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môitrường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độcông vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân. Nóicách khác, bộ luật, luật dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bảnthuộc các lĩnh vực về đối nội và đối ngoại của quốc gia. Bộ luật, luậtcó tính chất cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp theo những ngànhluật hoặc các lĩnh vực pháp luật chuyên biệt, ví dụ: Bộ luật Hình sự,Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình… Trong khoa học pháp lý,bộ luật và luật đều được gọi là đạo luật; sự khác nhau giữa bộ luật vàluật thường không nhiều. Tuy nhiên, bộ luật thường điều chỉnh cácnhóm quan hệ xã hội rộng lớn và có tính bao quát; bộ luật là “xươngsống” của một ngành luật. Ngoài ra, các bộ luật lớn còn chứa đựngnhững nguyên tắc chi phối các ngành luật lân cận. Ví dụ: các quy địnhcủa Bộ luật Dân sự có thể được viện dẫn trong khi giải quyết các quanhệ pháp luật hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp luật thương mại…Trong khi đó, văn bản luật có phạm vi điều chỉnh không rộng lắm.Một văn bản luật không nhất thiết tạo ra một ngành luật vì một ngànhluật có thể sử dụng nhiều văn bản luật làm cơ sở. Ví dụ: Luật Tố tụnghành chính năm 2010 là nguồn cơ bản của ngành luật tố tụng hànhchính; nhưng Luật Luật sư không tạo ra ngành luật riêng.Nghị quyết của Quốc hội được sử dụng để điề ...

Tài liệu được xem nhiều: