Nghiên cứu khoa học Kết quả giâm hom hồng tùng phục vụ trồng rừng bảo tồn nguồn gen
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 175.39 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hồng tùng còn gọi là hoàng đàn giả, có tên khoa học là Dacrydium pierrei Hickel (hoặc Dacrydium elatum), thuộc họ Kim giao (Podocarpaceae) là loài cây lấy gỗ, có phân bố rải rác ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Mặc dù có phân bố khá rộng song phân bố không tập trung, lại bị khai thác mạnh để cung cấp gỗ xây dựng và gia dụng nên hồng tùng đã được ghi vào Sách đỏ Việt Nam (1996). Do cây có kích thước lớn (cao đến 25-30 m) và quả nhỏ, tỷ lệ nảy mầm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khoa học " Kết quả giâm hom hồng tùng phục vụ trồng rừng bảo tồn nguồn gen "Tạp chí Nông nghiệp &PTNT, 3/2004, 390 - 391 Kết quả giâm hom hồng tùng phục vụ trồng rừng bảo tồn nguồn gen Nguyễn Hoàng Nghĩa, Trần Văn Tiến Viện Khoa học Lâm nghiệp VNHồng tùng còn gọi là hoàng đàn giả, có tên khoa học là Dacrydium pierrei Hickel (hoặc Dacrydiumelatum), thuộc họ Kim giao (Podocarpaceae) là loài cây lấy gỗ, có phân bố rải rác ở các tỉnh miềnTrung và Tây Nguyên. Mặc dù có phân bố khá rộng song phân bố không tập trung, lại bị khai thácmạnh để cung cấp gỗ xây dựng và gia dụng nên hồng tùng đã được ghi vào Sách đỏ Việt Nam(1996). Do cây có kích thước lớn (cao đến 25-30 m) và quả nhỏ, tỷ lệ nảy mầm thấp nên rất khó thuhái hạt giống và gieo ươm phục vụ cho các nhu cầu trồng rừng. Để khắc phục tình trạng trên chúngtôI tiến hành nghiên cứu giâm hom cây Hồng ting phục vụ bảo tồn nguồn gen.I. Vật liệu và phương pháp nghiên cứua. Vật liệu giâm hom: Hom đầu cành không mang quả của loài hồng tùng (Dacrydium pierrei Hickel)được thu tại Lâm Đồng, cho hai lứa tuổi là 7-8 tuổi và trên 50 tuổi (ước đoán) từ rừng tự nhiên.Thời gian thí nghiệm: Từ tháng 9 năm 2001 đến tháng 2 năm 2002, trên giá thể cát, tại nhà kính và v-ườn ươm Trung tâm Lâm sinh Lâm Đồng (thành phố Đà Lạt), thuộc Viện KH Lâm nghiệp Việt Nam.Do khí hậu quanh năm mát mẻ và nhà kính ổn định nên có thể nghiên cứu nhân giống hom cả năm.b. Các thuốc kích thích ra rễ: ba loại thuốc ra rễ được sử dụng là AIA (axit indol axetic), AIB (axitindol butiric) và ANA (axit naphtalen axetic) ở dạng bột với các nồng độ 0,5; 1,0; 1,5 và 2,0%. Đốichứng là các hom không xử lý với các chất kích thích ra rễ nêu trên. Các hom được nhúng vào thuốcbột theo các nồng độ khác nhau, sau đó được cấy vào giá thể cát trong nhà kính.II. Kết quả1. Kết quả giâm hom cây 7-8 tuổiCó thể dễ dàng nhận thấy là hồng tùng có khả năng ra rễ ngay cả khi không có chất kích thích, mặcdù tỷ lệ ra rễ của cây đối chứng chỉ đạt 25%. Các chất kích thích nói chung đã làm tăng đáng kể tỷ lệra rễ từ 2,0 đến 3,5 lần trong đó chất AIB cho tỷ lệ ra rễ cao nhất ở nồng độ 1,5%. Hai chất còn lại làAIA và ANA đều có nhiều công thức cho tỷ lệ ra rễ cao. Hầu hết tỷ lệ ra rễ đều đạt từ 60% trở lên,nghĩa là trên mức yêu cầu để có thể đưa cây hom vào sản xuất lớn phục vụ trồng diện rộng.Về chất lượng bộ rễ, các chất kích thích đều cho bộ rễ tốt hơn: có nhiều rễ hơn và rễ dài hơn. Saikhác giữa các chất kích thích ra rễ và giữa các công thức thí nghiệm không lớn song nồng độ 0,5%của cả 3 chất đều cho số rễ thấp nhất và chiều dài rễ ngắn nhất (xem bảng 2). Bảng 1. Tỷ lệ ra rễ ở các công thức giâm hom Tỷ lệ ra rễ Nồng Số lượng Công thức độ Ra r ễ Ra mô sẹo C hế t cành giâm (%) N % N % N % Đối chứng 0 20 5 10 50 5 25 25 AIA 0,5 20 11 5 25 4 20 55 1 20 14 3 15 3 15 70 1,5 20 16 2 10 2 10 80 2 20 13 3 15 4 10 65 AIB 0,5 20 15 3 15 2 10 75 1 20 17 1 5 2 10 85 1,5 20 18 1 5 1 5 90 2 20 14 3 15 3 15 70 ANA 0,5 20 10 6 30 4 20 50 1 20 13 4 20 3 15 65 1,5 20 15 3 15 2 10 75 2 20 14 1 10 4 20 70 Bảng 2: Chất lượng rễ theo các công thức giâm hom Nồng độ Số lượng rễ trung bình Chiều dài rễ dài nhất Công thức (%) trên hom (cm) Đối chứng 1,4 2,9 AIA 0,5 2,3 3,7 1 2,8 4,2 1,5 3,0 5,1 2 2,5 ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khoa học " Kết quả giâm hom hồng tùng phục vụ trồng rừng bảo tồn nguồn gen "Tạp chí Nông nghiệp &PTNT, 3/2004, 390 - 391 Kết quả giâm hom hồng tùng phục vụ trồng rừng bảo tồn nguồn gen Nguyễn Hoàng Nghĩa, Trần Văn Tiến Viện Khoa học Lâm nghiệp VNHồng tùng còn gọi là hoàng đàn giả, có tên khoa học là Dacrydium pierrei Hickel (hoặc Dacrydiumelatum), thuộc họ Kim giao (Podocarpaceae) là loài cây lấy gỗ, có phân bố rải rác ở các tỉnh miềnTrung và Tây Nguyên. Mặc dù có phân bố khá rộng song phân bố không tập trung, lại bị khai thácmạnh để cung cấp gỗ xây dựng và gia dụng nên hồng tùng đã được ghi vào Sách đỏ Việt Nam(1996). Do cây có kích thước lớn (cao đến 25-30 m) và quả nhỏ, tỷ lệ nảy mầm thấp nên rất khó thuhái hạt giống và gieo ươm phục vụ cho các nhu cầu trồng rừng. Để khắc phục tình trạng trên chúngtôI tiến hành nghiên cứu giâm hom cây Hồng ting phục vụ bảo tồn nguồn gen.I. Vật liệu và phương pháp nghiên cứua. Vật liệu giâm hom: Hom đầu cành không mang quả của loài hồng tùng (Dacrydium pierrei Hickel)được thu tại Lâm Đồng, cho hai lứa tuổi là 7-8 tuổi và trên 50 tuổi (ước đoán) từ rừng tự nhiên.Thời gian thí nghiệm: Từ tháng 9 năm 2001 đến tháng 2 năm 2002, trên giá thể cát, tại nhà kính và v-ườn ươm Trung tâm Lâm sinh Lâm Đồng (thành phố Đà Lạt), thuộc Viện KH Lâm nghiệp Việt Nam.Do khí hậu quanh năm mát mẻ và nhà kính ổn định nên có thể nghiên cứu nhân giống hom cả năm.b. Các thuốc kích thích ra rễ: ba loại thuốc ra rễ được sử dụng là AIA (axit indol axetic), AIB (axitindol butiric) và ANA (axit naphtalen axetic) ở dạng bột với các nồng độ 0,5; 1,0; 1,5 và 2,0%. Đốichứng là các hom không xử lý với các chất kích thích ra rễ nêu trên. Các hom được nhúng vào thuốcbột theo các nồng độ khác nhau, sau đó được cấy vào giá thể cát trong nhà kính.II. Kết quả1. Kết quả giâm hom cây 7-8 tuổiCó thể dễ dàng nhận thấy là hồng tùng có khả năng ra rễ ngay cả khi không có chất kích thích, mặcdù tỷ lệ ra rễ của cây đối chứng chỉ đạt 25%. Các chất kích thích nói chung đã làm tăng đáng kể tỷ lệra rễ từ 2,0 đến 3,5 lần trong đó chất AIB cho tỷ lệ ra rễ cao nhất ở nồng độ 1,5%. Hai chất còn lại làAIA và ANA đều có nhiều công thức cho tỷ lệ ra rễ cao. Hầu hết tỷ lệ ra rễ đều đạt từ 60% trở lên,nghĩa là trên mức yêu cầu để có thể đưa cây hom vào sản xuất lớn phục vụ trồng diện rộng.Về chất lượng bộ rễ, các chất kích thích đều cho bộ rễ tốt hơn: có nhiều rễ hơn và rễ dài hơn. Saikhác giữa các chất kích thích ra rễ và giữa các công thức thí nghiệm không lớn song nồng độ 0,5%của cả 3 chất đều cho số rễ thấp nhất và chiều dài rễ ngắn nhất (xem bảng 2). Bảng 1. Tỷ lệ ra rễ ở các công thức giâm hom Tỷ lệ ra rễ Nồng Số lượng Công thức độ Ra r ễ Ra mô sẹo C hế t cành giâm (%) N % N % N % Đối chứng 0 20 5 10 50 5 25 25 AIA 0,5 20 11 5 25 4 20 55 1 20 14 3 15 3 15 70 1,5 20 16 2 10 2 10 80 2 20 13 3 15 4 10 65 AIB 0,5 20 15 3 15 2 10 75 1 20 17 1 5 2 10 85 1,5 20 18 1 5 1 5 90 2 20 14 3 15 3 15 70 ANA 0,5 20 10 6 30 4 20 50 1 20 13 4 20 3 15 65 1,5 20 15 3 15 2 10 75 2 20 14 1 10 4 20 70 Bảng 2: Chất lượng rễ theo các công thức giâm hom Nồng độ Số lượng rễ trung bình Chiều dài rễ dài nhất Công thức (%) trên hom (cm) Đối chứng 1,4 2,9 AIA 0,5 2,3 3,7 1 2,8 4,2 1,5 3,0 5,1 2 2,5 ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nghiên cứu khoa học kỹ thuật lâm sinh khoa học lâm nghiệp công nghệ rừng kinh tế rừngTài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1601 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 507 0 0 -
57 trang 353 0 0
-
33 trang 344 0 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 285 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 278 0 0 -
95 trang 277 1 0
-
29 trang 239 0 0
-
4 trang 229 0 0
-
Tóm tắt luận án tiến sỹ Một số vấn đề tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả trong xử lý thông tin hình ảnh
28 trang 225 0 0