Nghiên cứu khoa học Kết quả nghiên cứu thiết kế chế tạo máy băm dăm tre làm bột giấy
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 163.04 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Kết quả nghiên cứu thiết kế chế tạo máy băm dăm tre làm bột giấy Nguyễn Mạnh Hoạt Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
Tre là loài cây sinh trưởng và phát triển nhanh, chỉ sau 3 năm kể từ khi trồng là có thể khai thác sử dụng, sau đó năm nào cũng thu hoạch được 30% sản lượng. Hiện nay do áp dụng công nghệ nhân giống bằng hom, nên diện tích và sản lượng tre đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghiệp sản xuất bột- giấy từ nguyên liệu tre, nứa, gỗ rừng trồng. Hiện...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khoa học "Kết quả nghiên cứu thiết kế chế tạo máy băm dăm tre làm bột giấy " Kết quả nghiên cứu thiết kế chế tạo máy băm dăm tre làm bột giấy Nguyễn Mạnh Hoạt Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam Tre là loài cây sinh trưởng và phát triển nhanh, chỉ sau 3 năm kể từ khi trồng là có thể khai thác sử dụng, sau đó năm nào cũng thu hoạch được 30% sản lượng. Hiện nay do áp dụng công nghệ nhân giống bằng hom, nên diện tích và sản lượng tre đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghiệp sản xuất bột- giấy từ nguyên liệu tre, nứa, gỗ rừng trồng. Hiện nay ở nước ta đã có khoảng 200 nhà máy, xí nghiệp sản xuất bột giấy từ tre - nứa hoặc tre phối hợp với gỗ như các nhà máy giấy Bãi Bằng, nhà máy giấy Lửa Việt ở Phú Thọ, nhà máy giấy Sơn La ở Sơn La, nhà máy giấy Sông Lam ở Nghệ An,… Đa số các nhà máy trên đều mua tre về băm dăm tại nhà máy, bằng máy băm dăm của Trung Quốc hay Đài Loan. Do tre có độ rỗng lớn nên chi phí vận chuyển thường cao khi nhà máy ở xa vùng nguyên liệu, (như các nhà máy giấy Sông Lam, Bãi Bằng,... cự ly vận chuyển nguyên liệu tre thường trên 100km) và cần có bãi dự trữ nguyên liệu lớn để bảo đảm sản xuất liên tục. Nhờ có chính sách giao đất, khoán rừng và phát triển kinh tế trang trại nên hiện nay nguyên liệu tre rất phong phú, người nông dân đang cần bán nguyên liệu tre cho nhà máy. Sản phẩm của họ nếu là tre cây thì chỉ lấy một đoạn có chiều dài bột giấy các nhà máy cần mua dăm băm bằng máy. Tại Việt Nam hiện nay có 2 loại máy băm dăm được dùng trong các nhà máy giấy là máy băm dăm kiểu đĩa do Đài Loan sản xuất với công suất = 3 – 4 tấn dăm/giờ, loại của Thuỵ Điển có công suất lớn = 30 tấn dăm/giờ và máy băm dăm kiểu tang trống do Thuỵ Điển sản xuất công suất = 25 tấn dăm /giờ. Dăm do máy băm kiểu đĩa tạo ra có chất l ượng tốt hơn vì tỷ lệ dăm hợp cách cao, có thể đạt tới trên 90% (theo tiêu chuẩn dăm do nhà máy đặt ra). Về cấu tạo máy băm dăm kiểu tang trống thường cồng kềnh, cấp liệu và chuyển dăm ra đều phải dùng băng tải. Mặt khác, để băm tre bằng máy băm dăm kiểu tang trống thì tre phải được làm bẹp và kẹp chặt (nạp liệu kiểu cưỡng bức). Vì vậy máy băm kiểu tang trống không dùng lưu động mà chỉ dùng tại nhà máy. Để phục vụ cho mục tiêu sản xuất dăm tại khu trồng nguyên liệu và tạo ra dăm tre có chất lượng tốt (dăm đều và vỡ rạn) dễ ngấm hoá chất khi nấu trong nồi áp lực, giảm được thời gian nấu, chúng tôi lựa chọn và đề xuất đề tài Nghiên cứu, thiết kế máy băm dăm tre làm bột giấy . I. Nghiên cứu và lựa chọn các thông số để thiết kế máy Qua nghiên cứu, khảo sát tại các cơ sở sản xuất bột giấy ở Thanh Hoá, Phú Thọ, Thái Nguyên và Yên Bái chúng tôi chọn loại hình máy băm dăm kiểu đĩa để tính toán thiết kế, chế tạo với yêu cầu máy tạo ra dăm đủ tiêu chuẩn sản xuất bột giấy công nghiệp với công nghệ nấu bột trong nồi có áp lực hơi thông thường. Hiện nay một số nhà máy sản xuất bột giấy từ nguyên liệu tre ở phía Bắc như Việt Trì, Hoàng Văn Thụ, Sơn La, … có qui mô từ 5.000 đến 10.000 tấn bột/năm. Các xưởng bột khác nhỏ hơn, công suất từ 1000 đến 3000 tấn bột/năm. Để sản xuất 1 tấn bột từ tre cần có khoảng 4 tấn nguyên liệu tre.Do điều kiện hạ tầng cơ sở như đường vận chuyển, địa hình phức tạp, qui mô các nhà máy và xưởng sản xuất bột giấy nhỏ nên chúng tôi đưa ra các yêu cầu để thiết kế máy như sau: + Công nghệ sản xuất đơn giản - phối hợp giữa thủ công và máy (khâu nạp liệu bằng thủ công) nhưng khi cần có thể cơ giới hoá; máy thực hiện việc băm dăm và phun dăm vào thùng xe vận tải hoặc phun thành đống dự trữ, sau đó nạp lên xe vận chuyển bằng băng tải + Dao băm dễ tháo lắp + Có thể lắp được cả động cơ điện hoặc động cơ Điêzen + Có tính cơ động cao và gọn nhẹ. + Cửa nạp trên dùng để nạp khúc tre ngắn có kích thước từ 40 - 200cm theo phương pháp trọng lực tự kéo nhờ máng nạp và dao băm . + Cửa dưới để nạp nguyên liệu có chiều dài >200cm đến 500cm theo phương pháp tự kéo nhờ máng nạp và dao băm. + Máy được đặt đứng - nghĩa là trục chính song song với mặt phẳng ngang, mặt phẳng của đĩa băm vuông góc mặt phẳng ngang. + Dăm được phun ra theo đường ống tròn có chiều cao hợp lý để có thể phun thẳng vào thùng xe vận chuyển hoặc phun thành đống + Năng suất băm dăm đạt khoảng 3 tấn dăm/giờ, hoặc 30 tấn cho một ngày làm việc. + Có khả năng điều chỉnh được kích thước dăm phù hợp với tiêu chuẩn dăm cho sản xuất bột giấy Nguyên lý hoạt động của máy băm dăm kiểu đĩa Máy băm dăm tre được đặt tại nơi có thể tập trung được nguyên liệu tre, gần đường vận chuyển và gần trạm biến thế điện nếu là máy dùng động cơ điện. Khi nạp liệu vào máy ta đặt tre vào máng và đẩy cho tre tiếp xúc với dao băm, nhờ đà quay của đĩa băm, tre được kéo vào liên tục cho đến hết. Dăm được phun theo ống thoát dăm vào kho chứa hoặc thùng xe nhờ có 6 cánh gắn trên đĩa dao tạo gió đẩy dăm thoát ra ngoài. Cũng nhờ các cánh đó nên dăm được đập nhỏ trong buồng dăm đạt kích thước yêu cầu trước khi thoát ra ngoài. Trên thân máy có cửa để tháo lắp và điều chỉnh dao băm; đồng thời có hệ thống bu lông để điều chỉnh dao tỳ đảm bảo đạt các kích thước dăm tiêu chuẩn. Công suất cần thiết của động cơ điện: Nđ c = 1,2 (28,03 + 2,04) = 36,08 (Kw) = 49 (cv) Kích thước dao băm: 260 x 180 x 20 (mm); góc mài b= 36o Kích thước dao tỳ: 220 x 160 x 16 (mm); góc mài b= 85o Kích thước một số chi tiết chính : a - Đĩa băm: D = 980mm; Chiều dày b = 55mm b - Cửa nạp liệu: 160 x 180 (mm) c - ống thoát dăm: d = 200 (mm) 2. Kết quả bước đầu về chế tạo và hoạt động của máy trong sản xuất Máy băm dăm sau khi được tính toán thiết kế hoàn chỉnh; được phép của Viện trưởng Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, chúng tôi đã đi tìm cơ sở ứng dụng để có thể chế tạo và khảo nghiệm máy trong sản xuất. Trong quí IV năm 2001 chúng tôi đã tiến hành chế tạo máy theo Hợp đồng Hợp tác nghiên cứu ký với Công ty Cổ phần Chế biến Nông Lâm sản Bắc Giang. Máy sau khi chế tạo xong được đặt tạ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khoa học "Kết quả nghiên cứu thiết kế chế tạo máy băm dăm tre làm bột giấy " Kết quả nghiên cứu thiết kế chế tạo máy băm dăm tre làm bột giấy Nguyễn Mạnh Hoạt Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam Tre là loài cây sinh trưởng và phát triển nhanh, chỉ sau 3 năm kể từ khi trồng là có thể khai thác sử dụng, sau đó năm nào cũng thu hoạch được 30% sản lượng. Hiện nay do áp dụng công nghệ nhân giống bằng hom, nên diện tích và sản lượng tre đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghiệp sản xuất bột- giấy từ nguyên liệu tre, nứa, gỗ rừng trồng. Hiện nay ở nước ta đã có khoảng 200 nhà máy, xí nghiệp sản xuất bột giấy từ tre - nứa hoặc tre phối hợp với gỗ như các nhà máy giấy Bãi Bằng, nhà máy giấy Lửa Việt ở Phú Thọ, nhà máy giấy Sơn La ở Sơn La, nhà máy giấy Sông Lam ở Nghệ An,… Đa số các nhà máy trên đều mua tre về băm dăm tại nhà máy, bằng máy băm dăm của Trung Quốc hay Đài Loan. Do tre có độ rỗng lớn nên chi phí vận chuyển thường cao khi nhà máy ở xa vùng nguyên liệu, (như các nhà máy giấy Sông Lam, Bãi Bằng,... cự ly vận chuyển nguyên liệu tre thường trên 100km) và cần có bãi dự trữ nguyên liệu lớn để bảo đảm sản xuất liên tục. Nhờ có chính sách giao đất, khoán rừng và phát triển kinh tế trang trại nên hiện nay nguyên liệu tre rất phong phú, người nông dân đang cần bán nguyên liệu tre cho nhà máy. Sản phẩm của họ nếu là tre cây thì chỉ lấy một đoạn có chiều dài bột giấy các nhà máy cần mua dăm băm bằng máy. Tại Việt Nam hiện nay có 2 loại máy băm dăm được dùng trong các nhà máy giấy là máy băm dăm kiểu đĩa do Đài Loan sản xuất với công suất = 3 – 4 tấn dăm/giờ, loại của Thuỵ Điển có công suất lớn = 30 tấn dăm/giờ và máy băm dăm kiểu tang trống do Thuỵ Điển sản xuất công suất = 25 tấn dăm /giờ. Dăm do máy băm kiểu đĩa tạo ra có chất l ượng tốt hơn vì tỷ lệ dăm hợp cách cao, có thể đạt tới trên 90% (theo tiêu chuẩn dăm do nhà máy đặt ra). Về cấu tạo máy băm dăm kiểu tang trống thường cồng kềnh, cấp liệu và chuyển dăm ra đều phải dùng băng tải. Mặt khác, để băm tre bằng máy băm dăm kiểu tang trống thì tre phải được làm bẹp và kẹp chặt (nạp liệu kiểu cưỡng bức). Vì vậy máy băm kiểu tang trống không dùng lưu động mà chỉ dùng tại nhà máy. Để phục vụ cho mục tiêu sản xuất dăm tại khu trồng nguyên liệu và tạo ra dăm tre có chất lượng tốt (dăm đều và vỡ rạn) dễ ngấm hoá chất khi nấu trong nồi áp lực, giảm được thời gian nấu, chúng tôi lựa chọn và đề xuất đề tài Nghiên cứu, thiết kế máy băm dăm tre làm bột giấy . I. Nghiên cứu và lựa chọn các thông số để thiết kế máy Qua nghiên cứu, khảo sát tại các cơ sở sản xuất bột giấy ở Thanh Hoá, Phú Thọ, Thái Nguyên và Yên Bái chúng tôi chọn loại hình máy băm dăm kiểu đĩa để tính toán thiết kế, chế tạo với yêu cầu máy tạo ra dăm đủ tiêu chuẩn sản xuất bột giấy công nghiệp với công nghệ nấu bột trong nồi có áp lực hơi thông thường. Hiện nay một số nhà máy sản xuất bột giấy từ nguyên liệu tre ở phía Bắc như Việt Trì, Hoàng Văn Thụ, Sơn La, … có qui mô từ 5.000 đến 10.000 tấn bột/năm. Các xưởng bột khác nhỏ hơn, công suất từ 1000 đến 3000 tấn bột/năm. Để sản xuất 1 tấn bột từ tre cần có khoảng 4 tấn nguyên liệu tre.Do điều kiện hạ tầng cơ sở như đường vận chuyển, địa hình phức tạp, qui mô các nhà máy và xưởng sản xuất bột giấy nhỏ nên chúng tôi đưa ra các yêu cầu để thiết kế máy như sau: + Công nghệ sản xuất đơn giản - phối hợp giữa thủ công và máy (khâu nạp liệu bằng thủ công) nhưng khi cần có thể cơ giới hoá; máy thực hiện việc băm dăm và phun dăm vào thùng xe vận tải hoặc phun thành đống dự trữ, sau đó nạp lên xe vận chuyển bằng băng tải + Dao băm dễ tháo lắp + Có thể lắp được cả động cơ điện hoặc động cơ Điêzen + Có tính cơ động cao và gọn nhẹ. + Cửa nạp trên dùng để nạp khúc tre ngắn có kích thước từ 40 - 200cm theo phương pháp trọng lực tự kéo nhờ máng nạp và dao băm . + Cửa dưới để nạp nguyên liệu có chiều dài >200cm đến 500cm theo phương pháp tự kéo nhờ máng nạp và dao băm. + Máy được đặt đứng - nghĩa là trục chính song song với mặt phẳng ngang, mặt phẳng của đĩa băm vuông góc mặt phẳng ngang. + Dăm được phun ra theo đường ống tròn có chiều cao hợp lý để có thể phun thẳng vào thùng xe vận chuyển hoặc phun thành đống + Năng suất băm dăm đạt khoảng 3 tấn dăm/giờ, hoặc 30 tấn cho một ngày làm việc. + Có khả năng điều chỉnh được kích thước dăm phù hợp với tiêu chuẩn dăm cho sản xuất bột giấy Nguyên lý hoạt động của máy băm dăm kiểu đĩa Máy băm dăm tre được đặt tại nơi có thể tập trung được nguyên liệu tre, gần đường vận chuyển và gần trạm biến thế điện nếu là máy dùng động cơ điện. Khi nạp liệu vào máy ta đặt tre vào máng và đẩy cho tre tiếp xúc với dao băm, nhờ đà quay của đĩa băm, tre được kéo vào liên tục cho đến hết. Dăm được phun theo ống thoát dăm vào kho chứa hoặc thùng xe nhờ có 6 cánh gắn trên đĩa dao tạo gió đẩy dăm thoát ra ngoài. Cũng nhờ các cánh đó nên dăm được đập nhỏ trong buồng dăm đạt kích thước yêu cầu trước khi thoát ra ngoài. Trên thân máy có cửa để tháo lắp và điều chỉnh dao băm; đồng thời có hệ thống bu lông để điều chỉnh dao tỳ đảm bảo đạt các kích thước dăm tiêu chuẩn. Công suất cần thiết của động cơ điện: Nđ c = 1,2 (28,03 + 2,04) = 36,08 (Kw) = 49 (cv) Kích thước dao băm: 260 x 180 x 20 (mm); góc mài b= 36o Kích thước dao tỳ: 220 x 160 x 16 (mm); góc mài b= 85o Kích thước một số chi tiết chính : a - Đĩa băm: D = 980mm; Chiều dày b = 55mm b - Cửa nạp liệu: 160 x 180 (mm) c - ống thoát dăm: d = 200 (mm) 2. Kết quả bước đầu về chế tạo và hoạt động của máy trong sản xuất Máy băm dăm sau khi được tính toán thiết kế hoàn chỉnh; được phép của Viện trưởng Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, chúng tôi đã đi tìm cơ sở ứng dụng để có thể chế tạo và khảo nghiệm máy trong sản xuất. Trong quí IV năm 2001 chúng tôi đã tiến hành chế tạo máy theo Hợp đồng Hợp tác nghiên cứu ký với Công ty Cổ phần Chế biến Nông Lâm sản Bắc Giang. Máy sau khi chế tạo xong được đặt tạ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nghiên cứu khoa học kỹ thuật lâm sinh khoa học lâm nghiệp công nghệ rừng kinh tế rừngTài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1605 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 509 0 0 -
57 trang 354 0 0
-
33 trang 345 0 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 286 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 279 0 0 -
95 trang 277 1 0
-
29 trang 239 0 0
-
4 trang 230 0 0
-
Tóm tắt luận án tiến sỹ Một số vấn đề tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả trong xử lý thông tin hình ảnh
28 trang 225 0 0