![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Nghiên cứu khoa học Một số loài nứa (schizostachyum) mới của Việt Nam
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 121.59 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nứa là nhóm các loài tre đặc trưng chủ yếu bởi vách mỏng, thân có silíc nên nhám và sắc. Nứa trước kia thuộc chi Neohouzeaua và các thông tin trước đây ở nước ta phần lớn chỉ nhắc đến một loài nứa (Neohouzeaua dulloa). Theo hiểu biết tới hiện nay thì các loài nứa thuộc vào chi Schizostachyum, trên thế giới có cả thảy 70 loài trong đó Trung Quốc có 10 loài và ấn Độ có 17 loài, còn Teinostachyum trên thế giới có 6 loài. Ngày nay chi Nứa (Schizostachyum) bao gồm cả Cephalostachyum và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khoa học " Một số loài nứa (schizostachyum) mới của Việt Nam " Một số loài nứa (schizostachyum) mới của Việt Nam Nguyễn Hoàng Nghĩa, Trần Văn Tiến Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 1. Mở đầu Nứa là nhóm các loài tre đặc trưng chủ yếu bởi vách mỏng, thân có silíc nên nhám và sắc. Nứa trước kia thuộc chi Neohouzeaua và các thông tin trước đây ở nước ta phần lớn chỉ nhắc đến một loài nứa (Neohouzeaua dulloa). Theo hiểu biết tới hiện nay thì các loài nứa thuộc vào chi Schizostachyum, trên thế giới có cả thảy 70 loài trong đó Trung Quốc có 10 loài và ấn Độ có 17 loài, còn Teinostachyum trên thế giới có 6 loài. Ngày nay chi Nứa (Schizostachyum) bao gồm cả Cephalostachyum và Teinostachyum. Các nghiên cứu gần đây cho thấy chi Nứa có thể có một số loài ở nước ta, mà quan trọng nhất và phổ biến nhất vẫn là nứa lá to, nứa lá nhỏ và nứa tép. GS. Phạm Hoàng Hộ (1999) đã mô tả 13 loài của chi Schizostachyum và 1 loài của chi Teinostachyum, tổng cộng là 14 loài nứa trong đó có nứa lá to (S. funghomii), nứa lá nhỏ (S. pseudolima) và Nứa (Teinostachyum dulloa). Các loài nứa thường chiếm cứ các vùng đất rừng nơi mà rừng tự nhiên cây lá rộng bị chặt phá chưa thể phục hồi. Chúng được khai thác phục vụ xây dựng nhà cửa, làm phên, làm cót và làm nguyên liệu sản xuất giấy. Theo cách hiểu của khá nhiều người thì nứa tép là tình trạng thoái hoá của nứa nói chung. Trên cơ sở hỗ trợ của đề tài “Bảo tồn nguồn gen cây rừng, 2001 — 2005” và Dự án Tre của IPGRI (giai đoạn 2003 - 2005), chúng tôi đã thực hiện các chuyến khảo sát trên toàn quốc và đã tìm thấy một số loài nứa mới thuộc chi Nứa (Schizostachyum). Trên cơ sở cấu tạo hình thái, chúng tôi mô tả chi tiết để giới thiệu một số loài nứa mới thu được trong thời gian qua. 2. Vật liệu và phương pháp 2.1. Vật liệu: Mẫu vật thu được từ các chuyến khảo sát bao gồm thân, cành, mo, lá của 16 loài nứa (trong đó có 7 loài có hoa và quả) thuộc chi Nứa (Schizostachyum), trong bài này chúng tôi thông báo một số loài nứa mới không có hoa bao gồm: 1. Khốp Cà Ná: Cà Ná, Ninh Thuận, 2. Nứa Núi Dinh: Bà Rịa - Vũng Tàu, 3. Nứa đèo Lò Xo: Đắc Glei, Kon Tum, 4. Nứa lá to Saloong: Ngọc Hồi, Kon Tum, 5. Nứa không tai Côn Sơn: Chí Linh, Hải Dương, 6. Nứa có tai Côn Sơn: Chí Linh, Hải Dương, 7. Nứa Bảo Lộc: Bảo Lộc, Lâm Đồng (mô tả để so sánh). 2.2. Phương pháp: Mô tả thực các đặc điểm thân, cành, mo, lá và giải phẫu hoa quả làm cơ sở cho giám định loài và ghép chi dựa vào một số khoá phân loại và tài liệu phân loại cơ bản như Gamble (1896), Phạm Hoàng Hộ (1999), Rao et al. (1991), Rao and Ramanatha Rao (2000), Seethalakshmi and Kumar (1998) Wong (1995, 2004). 3. Kết quả nghiên cứu Bông giả. Cụm hoa ở đầu ngọn cành quanh đốt thân hay đỉnh của ngọn, dạng chùm ngắn hay dài, mọc quanh đốt của trục mang hoa hay kéo dài theo trục của hoa, số lượng hoa giản dần lên phía trên đầu, trục hoa mảnh. Bông nhỏ, thường hình trụ thuôn dài, ít khi ngắn, đầu thót nhọn, kết thành bó ở đầu. Cuống hoa mảnh, dài, có khớp ở mày dưới cùng, thường mang từ 2 - 3 hoa, có khi lên đến 5 hoa. Thường có nhiều mày ngoài nhỏ mọc đối hay xếp lợp và nằm phía trong mày ngoài lớn. Mày mang hoa 1 - 2, xếp lợp, cuộn tròn lại, đầu có mũi nhọn dài. Lá bắc nhô cao so với mày ngoài, cuộn lại; lá bắc mọc đối diện với cuống hoa mang hoa phía trên có dạng cánh thuyền (thường bất thụ), ở phía trên cùng thì không có dạng cánh thuyền, đầu có mũi nhọn dài, thuờng là 1, ít khi xẻ đôi. Mày nhỏ từ 2 - 4, thường 2 - 3, hẹp nhọn và có lông dài. Nhị 6, nhô ngoài, bao phấn, hẹp, tù hay nhọn đột ngột ở đầu; chỉ nhị dạng bản, rời. Nhụy có cuống nhụy dạng bản, màu sáng; chỉ nhụy màu nâu, vòi nhụy xẻ 2 - 3 và đôi khi dính nhau lại dạng bản. Bầu hẹp, dài và nhọn ở đầu. Quả thóc hình trụ, có mũi nhọn ở đầu. 3.1. Khốp Cà Ná Khốp Cà Ná là loài tre mọc cụm dày đến thưa, thân cây nhỏ, đứng thẳng. Cây cao khoảng 2 - 4 m, đường kính thân 1,3 - 1,5 cm, Vách dày 0,2 cm, lóng dài 16 - 17 cm. Nhiều cành nhỏ mọc từ một gốc. Thân hơi phù ở giữa lóng. Mo thân hình thuôn, mặt ngoài có lông màu đồng nằm, 1/2 phía trên có gân nổi rõ, dày. Bẹ mo có đáy dưới rộng 1,5 - 2,2 cm và cao 8 - 11,5 cm; đáy trên cắt ngang hay nhô cao ở giữa và có hai vai hơi lệch, cao 1 - 1,5 cm. Phiến mo dạng dải thuôn, rộng 1 - 1,5 cm, cao 8 - 11 cm. Tai mo 0,2 x 0,3 - 0,5 cm, đứng lúc non và nằm ngửa ra khi già, có lông dày, dài đến 1,3 cm. Lá dạng dải, có lông mịn ở hai mặt và dài ở hai mép. Phiến lá dài 8,5 - 9,5 cm, rộng 0,4 - 0,5 cm. Gốc lá nhọn, đáy lệch. Gân lá 2 - 3 đôi. Lưỡi lá không lông. Tai lá thấp có lông thưa dài đến 1,2 cm. Bẹ lá không lông. Cuống lá có lông, 0,1 x 0,2 cm. Khốp Cà Ná được tìm thấy trên độ cao khoảng 400 - 600 m của vùng núi Cà Ná (Ninh Thuận) nơi có điều kiện đất đai và khí hậu khô cằn khắc nghiệt (mùa khô kéo dài quá 6 tháng, lượng mưa bình quân năm khoảng 1000 mm), xung quanh có các loài đặc trưng cho vùng khô như tre là a Cà Ná, Dầu lông, Cẩm liên. 3.2. nứa núi dinh GS. Phạm Hoàng Hộ (1999) đã xếp loài này vào chi Tre (Bambusa) và đặt tên loài là Bambusa schizostachyoides Kurz ex Gamble, song trong quá trình khảo sát, xem xét thấy nên xếp loài vào chi Nứa cho hợp lý hơn. Nứa núi Dinh là loài tre mọc cụm với đặc điểm nổi bật là lá to và lóng dài. Tuỳ theo hoàn cảnh sống mà thân cao hay thấp. Ngay tại núi Dinh, ở các vùng đất khô cằn, cây chỉ cao 2 - 3 m, vào mùa khô cây vàng hết lá; trong khi ở ven khe, cây vươn dài tới 12 m, đường kính thân 2 - 2,2 cm, thân non có phấn trắng dày và vết sẹo lá phù to. Cây ven khe có lóng dài tới 125 cm, thân màu xanh thẫm. Vách dày 0,5 cm. Nhiều cành nhỏ, có rễ ở gốc cành. Trên thân, lá dài 20 - 32 cm, rộng 3,5 - 5 cm còn ở đầu cành, lá dài 40 - 42 cm, rộng 9 cm. Gốc lá nhọn, lệch. Bẹ lá có lông tơ dày dài. Cuống lá dài 0,6 - 0,8 cm. Gân lá 10 - 11 đôi. Loài được tìm thấy trên núi Dinh (Bà Rịa - Vũng Tàu) với một số loài tre khác như tre (Bambusa) và le (Gigantochloa). 3.3. nứa đèo lò xo Nứa đèo Lò Xo là loài tre mọc cụm dà ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khoa học " Một số loài nứa (schizostachyum) mới của Việt Nam " Một số loài nứa (schizostachyum) mới của Việt Nam Nguyễn Hoàng Nghĩa, Trần Văn Tiến Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 1. Mở đầu Nứa là nhóm các loài tre đặc trưng chủ yếu bởi vách mỏng, thân có silíc nên nhám và sắc. Nứa trước kia thuộc chi Neohouzeaua và các thông tin trước đây ở nước ta phần lớn chỉ nhắc đến một loài nứa (Neohouzeaua dulloa). Theo hiểu biết tới hiện nay thì các loài nứa thuộc vào chi Schizostachyum, trên thế giới có cả thảy 70 loài trong đó Trung Quốc có 10 loài và ấn Độ có 17 loài, còn Teinostachyum trên thế giới có 6 loài. Ngày nay chi Nứa (Schizostachyum) bao gồm cả Cephalostachyum và Teinostachyum. Các nghiên cứu gần đây cho thấy chi Nứa có thể có một số loài ở nước ta, mà quan trọng nhất và phổ biến nhất vẫn là nứa lá to, nứa lá nhỏ và nứa tép. GS. Phạm Hoàng Hộ (1999) đã mô tả 13 loài của chi Schizostachyum và 1 loài của chi Teinostachyum, tổng cộng là 14 loài nứa trong đó có nứa lá to (S. funghomii), nứa lá nhỏ (S. pseudolima) và Nứa (Teinostachyum dulloa). Các loài nứa thường chiếm cứ các vùng đất rừng nơi mà rừng tự nhiên cây lá rộng bị chặt phá chưa thể phục hồi. Chúng được khai thác phục vụ xây dựng nhà cửa, làm phên, làm cót và làm nguyên liệu sản xuất giấy. Theo cách hiểu của khá nhiều người thì nứa tép là tình trạng thoái hoá của nứa nói chung. Trên cơ sở hỗ trợ của đề tài “Bảo tồn nguồn gen cây rừng, 2001 — 2005” và Dự án Tre của IPGRI (giai đoạn 2003 - 2005), chúng tôi đã thực hiện các chuyến khảo sát trên toàn quốc và đã tìm thấy một số loài nứa mới thuộc chi Nứa (Schizostachyum). Trên cơ sở cấu tạo hình thái, chúng tôi mô tả chi tiết để giới thiệu một số loài nứa mới thu được trong thời gian qua. 2. Vật liệu và phương pháp 2.1. Vật liệu: Mẫu vật thu được từ các chuyến khảo sát bao gồm thân, cành, mo, lá của 16 loài nứa (trong đó có 7 loài có hoa và quả) thuộc chi Nứa (Schizostachyum), trong bài này chúng tôi thông báo một số loài nứa mới không có hoa bao gồm: 1. Khốp Cà Ná: Cà Ná, Ninh Thuận, 2. Nứa Núi Dinh: Bà Rịa - Vũng Tàu, 3. Nứa đèo Lò Xo: Đắc Glei, Kon Tum, 4. Nứa lá to Saloong: Ngọc Hồi, Kon Tum, 5. Nứa không tai Côn Sơn: Chí Linh, Hải Dương, 6. Nứa có tai Côn Sơn: Chí Linh, Hải Dương, 7. Nứa Bảo Lộc: Bảo Lộc, Lâm Đồng (mô tả để so sánh). 2.2. Phương pháp: Mô tả thực các đặc điểm thân, cành, mo, lá và giải phẫu hoa quả làm cơ sở cho giám định loài và ghép chi dựa vào một số khoá phân loại và tài liệu phân loại cơ bản như Gamble (1896), Phạm Hoàng Hộ (1999), Rao et al. (1991), Rao and Ramanatha Rao (2000), Seethalakshmi and Kumar (1998) Wong (1995, 2004). 3. Kết quả nghiên cứu Bông giả. Cụm hoa ở đầu ngọn cành quanh đốt thân hay đỉnh của ngọn, dạng chùm ngắn hay dài, mọc quanh đốt của trục mang hoa hay kéo dài theo trục của hoa, số lượng hoa giản dần lên phía trên đầu, trục hoa mảnh. Bông nhỏ, thường hình trụ thuôn dài, ít khi ngắn, đầu thót nhọn, kết thành bó ở đầu. Cuống hoa mảnh, dài, có khớp ở mày dưới cùng, thường mang từ 2 - 3 hoa, có khi lên đến 5 hoa. Thường có nhiều mày ngoài nhỏ mọc đối hay xếp lợp và nằm phía trong mày ngoài lớn. Mày mang hoa 1 - 2, xếp lợp, cuộn tròn lại, đầu có mũi nhọn dài. Lá bắc nhô cao so với mày ngoài, cuộn lại; lá bắc mọc đối diện với cuống hoa mang hoa phía trên có dạng cánh thuyền (thường bất thụ), ở phía trên cùng thì không có dạng cánh thuyền, đầu có mũi nhọn dài, thuờng là 1, ít khi xẻ đôi. Mày nhỏ từ 2 - 4, thường 2 - 3, hẹp nhọn và có lông dài. Nhị 6, nhô ngoài, bao phấn, hẹp, tù hay nhọn đột ngột ở đầu; chỉ nhị dạng bản, rời. Nhụy có cuống nhụy dạng bản, màu sáng; chỉ nhụy màu nâu, vòi nhụy xẻ 2 - 3 và đôi khi dính nhau lại dạng bản. Bầu hẹp, dài và nhọn ở đầu. Quả thóc hình trụ, có mũi nhọn ở đầu. 3.1. Khốp Cà Ná Khốp Cà Ná là loài tre mọc cụm dày đến thưa, thân cây nhỏ, đứng thẳng. Cây cao khoảng 2 - 4 m, đường kính thân 1,3 - 1,5 cm, Vách dày 0,2 cm, lóng dài 16 - 17 cm. Nhiều cành nhỏ mọc từ một gốc. Thân hơi phù ở giữa lóng. Mo thân hình thuôn, mặt ngoài có lông màu đồng nằm, 1/2 phía trên có gân nổi rõ, dày. Bẹ mo có đáy dưới rộng 1,5 - 2,2 cm và cao 8 - 11,5 cm; đáy trên cắt ngang hay nhô cao ở giữa và có hai vai hơi lệch, cao 1 - 1,5 cm. Phiến mo dạng dải thuôn, rộng 1 - 1,5 cm, cao 8 - 11 cm. Tai mo 0,2 x 0,3 - 0,5 cm, đứng lúc non và nằm ngửa ra khi già, có lông dày, dài đến 1,3 cm. Lá dạng dải, có lông mịn ở hai mặt và dài ở hai mép. Phiến lá dài 8,5 - 9,5 cm, rộng 0,4 - 0,5 cm. Gốc lá nhọn, đáy lệch. Gân lá 2 - 3 đôi. Lưỡi lá không lông. Tai lá thấp có lông thưa dài đến 1,2 cm. Bẹ lá không lông. Cuống lá có lông, 0,1 x 0,2 cm. Khốp Cà Ná được tìm thấy trên độ cao khoảng 400 - 600 m của vùng núi Cà Ná (Ninh Thuận) nơi có điều kiện đất đai và khí hậu khô cằn khắc nghiệt (mùa khô kéo dài quá 6 tháng, lượng mưa bình quân năm khoảng 1000 mm), xung quanh có các loài đặc trưng cho vùng khô như tre là a Cà Ná, Dầu lông, Cẩm liên. 3.2. nứa núi dinh GS. Phạm Hoàng Hộ (1999) đã xếp loài này vào chi Tre (Bambusa) và đặt tên loài là Bambusa schizostachyoides Kurz ex Gamble, song trong quá trình khảo sát, xem xét thấy nên xếp loài vào chi Nứa cho hợp lý hơn. Nứa núi Dinh là loài tre mọc cụm với đặc điểm nổi bật là lá to và lóng dài. Tuỳ theo hoàn cảnh sống mà thân cao hay thấp. Ngay tại núi Dinh, ở các vùng đất khô cằn, cây chỉ cao 2 - 3 m, vào mùa khô cây vàng hết lá; trong khi ở ven khe, cây vươn dài tới 12 m, đường kính thân 2 - 2,2 cm, thân non có phấn trắng dày và vết sẹo lá phù to. Cây ven khe có lóng dài tới 125 cm, thân màu xanh thẫm. Vách dày 0,5 cm. Nhiều cành nhỏ, có rễ ở gốc cành. Trên thân, lá dài 20 - 32 cm, rộng 3,5 - 5 cm còn ở đầu cành, lá dài 40 - 42 cm, rộng 9 cm. Gốc lá nhọn, lệch. Bẹ lá có lông tơ dày dài. Cuống lá dài 0,6 - 0,8 cm. Gân lá 10 - 11 đôi. Loài được tìm thấy trên núi Dinh (Bà Rịa - Vũng Tàu) với một số loài tre khác như tre (Bambusa) và le (Gigantochloa). 3.3. nứa đèo lò xo Nứa đèo Lò Xo là loài tre mọc cụm dà ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nghiên cứu khoa học kỹ thuật lâm sinh khoa học lâm nghiệp công nghệ rừng kinh tế rừngTài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1582 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 503 0 0 -
57 trang 349 0 0
-
33 trang 340 0 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 280 0 0 -
95 trang 274 1 0
-
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 273 0 0 -
29 trang 233 0 0
-
4 trang 225 0 0
-
Tóm tắt luận án tiến sỹ Một số vấn đề tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả trong xử lý thông tin hình ảnh
28 trang 225 0 0