Nghiên cứu khoa học Thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực lâm nghiệp
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 111.39 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Năm 1999 là năm đầu thực hiện dự án trên cơ sở nối tiếp chương trình 327 và đặt nền móng tốt cho các năm tiếp theo. Để thực hiện dự án, hàng loạt vấn đề cần được đồng bộ giải quyết đặc biệt là các chính sách về đất đai, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách hưởng lợi và tiêu thụ sản phẩm, chính sách về khoa học công nghệ. Đối với vấn đề khoa học công nghệ đặt ra trong dự án đã có nhiều cuộc hội thảo, bài viết trên các tạp chí...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khoa học " Thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực lâm nghiệp " Thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực lâm nghiệp - Đõ Đình Sâm Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định vào tháng 7 năm 1998 . Năm 1999 là năm đầu thực hiện dự án trên cơ sở nối tiếp chương trình 327 và đặt nền móng tốt cho các năm tiếp theo. Để thực hiện dự án, hàng loạt vấn đề cần được đồng bộ giải quyết đặc biệt là các chính sách về đất đai, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách hưởng lợi và tiêu thụ sản phẩm, chính sách về khoa học công nghệ. Đối với vấn đề khoa học công nghệ đặt ra trong dự án đã có nhiều cuộc hội thảo, bài viết trên các tạp chí đề cập về nhiều khía cạnh khác nhau. Trong bài viết này nội dung chủ yếu là nhấn mạnh thêm việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ đã có trong quá trình thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. 1. Qui hoạch sử dụng đất đai và đánh giá đất đai: Hiện nay Viện Điều tra quy hoạch rừng đang tiến hành rà soát lại quỹ đất cho dự án, tức là xác định diện tích đất đai dành cho mục tiêu phát triển lâm nghiệp. Ngoài xác định quỹ đất cần thiết phải nắm vững đặc điểm đất đai, độ ph ì đất làm cơ sở cho việc xác định cây trồng phù hợp và các biện pháp kỹ thuật cần tác động. Những cơ sở khoa học và phương pháp luận về đánh giá đất đai đã được thực hiện và đề xuất ở nhiều đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước trong giai đoạn 1985-1990 ở Viện Khoa học Lâm nghiệp , Viện Quy hoạch thiết kế nông nghiệp. Đó l à việc xác định yêu cầu của các loại hình sử dụng đất, các đòi hỏi về điều kiện sinh trưởng của cây trồng, so sánh với đặc điểm đất đai để xác định quỹ đất lâm nghiệp và mức độ thích hợp đất đai trên cơ sở áp dụng hệ thông tin địa lý GIS và phúc tra ngoài thực địa. Nhiều tài liệu nghiên cứu cơ bản về đất đai đã được hoàn thiện cần phải được tham khảo, sử dụng trong thực tiễn. Liên quan việc quy hoạch sử dụng và đánh giá đất đai còn cần phải xác định và đánh giá các lập điạ làm cơ sở xác định các biện pháp kỹ thuật thích hợp và dự đoán năng suất rừng trồng. Các phương pháp phân chia lập địa được chuyên gia Đức thực hiện nhiều năm ở Quảng Ninh cùng sự phối hợp của Viện Điều tra qui hoạch rừng là cơ sở quan trọng để xác định lập địa lâm nghiệp. Gần đây, những nghiên cứu về lập địa được hoàn thiện ở Viện Khoa học Lâm nghiệp và Viện Điều tra quy hoạch rừng, đặc biệt đối với vùng đất dốc có thể đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Từ những năm 1996 tới nay Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đ ã tham gia xác định và đánh giá lập địa (đặc biệt hướng dẫn phương pháp) cho các dự án trồng rừng của GTZ (Cộng hoà liên bang Đức) và ngân hàng Châu á -ADP và được đánh giá tốt. Phương pháp luận và vấn đề đánh giá đất đai trên đất ngập mặn sú vẹt và đất chua phèn cũng được Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam nghiên cứu, đề xuất đang bước đầu được áp dụng tại dự án hợp tác kỹ thuật Việt Nam-Nhật Bản về phục hồi rừng trên đất chua phèn ở Thạnh Hoá (Long An) và trước kia ở tỉnh Cà Mau . Nghiên cứu về đánh giá, phân loại đất cát ven biển theo mục tiêu sử dụng của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam cũng cần được xem xét đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Mộtvấn đề khác rất quan trọng trong quy hoạch sử dụng đất đai của dự án l à phải xác định ranh giới giữa 3 loại rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn và rừng sản xuất. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã có nhiều năm nghiên cứu về xói mòn , rửa trôi đất và nước dưới các kiểu rừng tự nhiên và rừng trồng khác nhau làm cơ sở bước đầu xây dựng qui phạm xác định rừng phòng hộ đầu nguồn của ngành. Trong những năm 1990-1995 một đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước về xác định các cơ sở khoa học xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn đã đạt kết quả khả quan và bước đầu được áp dụng trong thực tiễn. Một dự án quốc tế về đầu nguồn được thực hiện với sự tham gia của Viện Điều tra qui hoạch rừng đã áp dụng phương pháp phân chia đầu nguồn ở hạ lưu sông Mê Kông, có 3 nước tham gia: Việt Nam, Lào và Thái Lan. Gần đây trong năm 1997-1998 một đề tài nghiên cứu trong chương trình 327 về xác định phương pháp và phân chia rừng đầu nguồn trong toàn quốc cũng được Viện Điều tra qui hoạch rừng thực hiện. Tất cả các nghiên cứu nêu trên đã đạt được những kết quả quan trọng, đặc biệt là về phương pháp phân chia rừng đầu nguồn cần phải được khai thác triệt để và thống nhất để áp dụng trong qui hoạch sử dụng đất lâm nghiệp ở qui mô tỉn h và huyện. 2. Lựa chọn tập đoàn và cơ cấu cây trồng lâm nghiệp: Đây là vấn đề được nhiều người quan tâm nhất. Do nguồn thông tin bị hạn chế n ên về vấn đề này nhiều người dường như chưa hiểu biết được đầy đủ và cảm thấy cho tới nay chưa xác định được rõ ràng các loài cây trồng chủ yếu cho dự án. Điều đó hoàn toàn không chính xác. Dựa trên các kết quả nghiên cứu, thực nghiệm chúng ta đã khẳng định được các loài cây trồng chủ yếu của dự án. Trong tháng 10 vừa qua Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn , Trưởng Ban chỉ đạo Nhà nước của dự án đã viết một bài trên báo Nhân dân với nhan đề “Bảo vệ vốn rừng và việc lựa chọn cơ cấu cây lâm nghiệp trong dự án trồng mới 5 triệu ha rừng ở nưóc ta”, đã hoàn toàn khẳng định các loài cây trồng chủ yếu cho dự án. Để xác định tập đoàn và cơ cấu cây trồng lâm nghiệp cần thiết phải nhấn mạnh thêm một số quan điểm chủ yếu về vấn đề này: -Không nên phân biệt loài cây bản địa và nhập nội, phê phán loài cây nhập nội. Một số loài cây nhập nội vào Việt Nam sinh trưởng tốt đương nhiên được coi như loài cây bản địa như phi lao, thông mã vĩ, xà cừ, tếch. Trong điều kiện đất đai bị thoái hoá mạnh sau khi mất rừng thì chỉ có một số loài cây nhập nội có khả năng sinh trưởng, tồn tại được, đặc biệt là các loài keo và bạch đàn, loài cây bản địa chủ yếu là thông nhựa. -Khác với rừng tự nhiên, được hình thành lâu đời, tổ thành nhiều loài nên đã hình thành qui luật tự bón cho đất, còn rừng trồng công nghiệp đa số là các loài cây mọc nhanh lại phát triển trên đất đã thoái hoá thì cần có đầu tư thích đáng, áp dụng các biện pháp bảo vệ và nâng cao độ phì đất. Cây trồng đư ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khoa học " Thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực lâm nghiệp " Thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực lâm nghiệp - Đõ Đình Sâm Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định vào tháng 7 năm 1998 . Năm 1999 là năm đầu thực hiện dự án trên cơ sở nối tiếp chương trình 327 và đặt nền móng tốt cho các năm tiếp theo. Để thực hiện dự án, hàng loạt vấn đề cần được đồng bộ giải quyết đặc biệt là các chính sách về đất đai, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách hưởng lợi và tiêu thụ sản phẩm, chính sách về khoa học công nghệ. Đối với vấn đề khoa học công nghệ đặt ra trong dự án đã có nhiều cuộc hội thảo, bài viết trên các tạp chí đề cập về nhiều khía cạnh khác nhau. Trong bài viết này nội dung chủ yếu là nhấn mạnh thêm việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ đã có trong quá trình thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. 1. Qui hoạch sử dụng đất đai và đánh giá đất đai: Hiện nay Viện Điều tra quy hoạch rừng đang tiến hành rà soát lại quỹ đất cho dự án, tức là xác định diện tích đất đai dành cho mục tiêu phát triển lâm nghiệp. Ngoài xác định quỹ đất cần thiết phải nắm vững đặc điểm đất đai, độ ph ì đất làm cơ sở cho việc xác định cây trồng phù hợp và các biện pháp kỹ thuật cần tác động. Những cơ sở khoa học và phương pháp luận về đánh giá đất đai đã được thực hiện và đề xuất ở nhiều đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước trong giai đoạn 1985-1990 ở Viện Khoa học Lâm nghiệp , Viện Quy hoạch thiết kế nông nghiệp. Đó l à việc xác định yêu cầu của các loại hình sử dụng đất, các đòi hỏi về điều kiện sinh trưởng của cây trồng, so sánh với đặc điểm đất đai để xác định quỹ đất lâm nghiệp và mức độ thích hợp đất đai trên cơ sở áp dụng hệ thông tin địa lý GIS và phúc tra ngoài thực địa. Nhiều tài liệu nghiên cứu cơ bản về đất đai đã được hoàn thiện cần phải được tham khảo, sử dụng trong thực tiễn. Liên quan việc quy hoạch sử dụng và đánh giá đất đai còn cần phải xác định và đánh giá các lập điạ làm cơ sở xác định các biện pháp kỹ thuật thích hợp và dự đoán năng suất rừng trồng. Các phương pháp phân chia lập địa được chuyên gia Đức thực hiện nhiều năm ở Quảng Ninh cùng sự phối hợp của Viện Điều tra qui hoạch rừng là cơ sở quan trọng để xác định lập địa lâm nghiệp. Gần đây, những nghiên cứu về lập địa được hoàn thiện ở Viện Khoa học Lâm nghiệp và Viện Điều tra quy hoạch rừng, đặc biệt đối với vùng đất dốc có thể đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Từ những năm 1996 tới nay Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đ ã tham gia xác định và đánh giá lập địa (đặc biệt hướng dẫn phương pháp) cho các dự án trồng rừng của GTZ (Cộng hoà liên bang Đức) và ngân hàng Châu á -ADP và được đánh giá tốt. Phương pháp luận và vấn đề đánh giá đất đai trên đất ngập mặn sú vẹt và đất chua phèn cũng được Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam nghiên cứu, đề xuất đang bước đầu được áp dụng tại dự án hợp tác kỹ thuật Việt Nam-Nhật Bản về phục hồi rừng trên đất chua phèn ở Thạnh Hoá (Long An) và trước kia ở tỉnh Cà Mau . Nghiên cứu về đánh giá, phân loại đất cát ven biển theo mục tiêu sử dụng của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam cũng cần được xem xét đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Mộtvấn đề khác rất quan trọng trong quy hoạch sử dụng đất đai của dự án l à phải xác định ranh giới giữa 3 loại rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn và rừng sản xuất. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã có nhiều năm nghiên cứu về xói mòn , rửa trôi đất và nước dưới các kiểu rừng tự nhiên và rừng trồng khác nhau làm cơ sở bước đầu xây dựng qui phạm xác định rừng phòng hộ đầu nguồn của ngành. Trong những năm 1990-1995 một đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước về xác định các cơ sở khoa học xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn đã đạt kết quả khả quan và bước đầu được áp dụng trong thực tiễn. Một dự án quốc tế về đầu nguồn được thực hiện với sự tham gia của Viện Điều tra qui hoạch rừng đã áp dụng phương pháp phân chia đầu nguồn ở hạ lưu sông Mê Kông, có 3 nước tham gia: Việt Nam, Lào và Thái Lan. Gần đây trong năm 1997-1998 một đề tài nghiên cứu trong chương trình 327 về xác định phương pháp và phân chia rừng đầu nguồn trong toàn quốc cũng được Viện Điều tra qui hoạch rừng thực hiện. Tất cả các nghiên cứu nêu trên đã đạt được những kết quả quan trọng, đặc biệt là về phương pháp phân chia rừng đầu nguồn cần phải được khai thác triệt để và thống nhất để áp dụng trong qui hoạch sử dụng đất lâm nghiệp ở qui mô tỉn h và huyện. 2. Lựa chọn tập đoàn và cơ cấu cây trồng lâm nghiệp: Đây là vấn đề được nhiều người quan tâm nhất. Do nguồn thông tin bị hạn chế n ên về vấn đề này nhiều người dường như chưa hiểu biết được đầy đủ và cảm thấy cho tới nay chưa xác định được rõ ràng các loài cây trồng chủ yếu cho dự án. Điều đó hoàn toàn không chính xác. Dựa trên các kết quả nghiên cứu, thực nghiệm chúng ta đã khẳng định được các loài cây trồng chủ yếu của dự án. Trong tháng 10 vừa qua Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn , Trưởng Ban chỉ đạo Nhà nước của dự án đã viết một bài trên báo Nhân dân với nhan đề “Bảo vệ vốn rừng và việc lựa chọn cơ cấu cây lâm nghiệp trong dự án trồng mới 5 triệu ha rừng ở nưóc ta”, đã hoàn toàn khẳng định các loài cây trồng chủ yếu cho dự án. Để xác định tập đoàn và cơ cấu cây trồng lâm nghiệp cần thiết phải nhấn mạnh thêm một số quan điểm chủ yếu về vấn đề này: -Không nên phân biệt loài cây bản địa và nhập nội, phê phán loài cây nhập nội. Một số loài cây nhập nội vào Việt Nam sinh trưởng tốt đương nhiên được coi như loài cây bản địa như phi lao, thông mã vĩ, xà cừ, tếch. Trong điều kiện đất đai bị thoái hoá mạnh sau khi mất rừng thì chỉ có một số loài cây nhập nội có khả năng sinh trưởng, tồn tại được, đặc biệt là các loài keo và bạch đàn, loài cây bản địa chủ yếu là thông nhựa. -Khác với rừng tự nhiên, được hình thành lâu đời, tổ thành nhiều loài nên đã hình thành qui luật tự bón cho đất, còn rừng trồng công nghiệp đa số là các loài cây mọc nhanh lại phát triển trên đất đã thoái hoá thì cần có đầu tư thích đáng, áp dụng các biện pháp bảo vệ và nâng cao độ phì đất. Cây trồng đư ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nghiên cứu khoa học kỹ thuật lâm sinh khoa học lâm nghiệp công nghệ rừng kinh tế rừngTài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1570 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 502 0 0 -
57 trang 349 0 0
-
33 trang 338 0 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 280 0 0 -
95 trang 274 1 0
-
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 272 0 0 -
29 trang 233 0 0
-
Tóm tắt luận án tiến sỹ Một số vấn đề tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả trong xử lý thông tin hình ảnh
28 trang 225 0 0 -
4 trang 225 0 0