Danh mục

Nghiên cứu khoa học Về quyền sở hữu rừng tự nhiên

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 176.62 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Phí tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong Luật Đất đai 2003, ghi: “ Đất đai thuộc sở hữu tòan dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” ( điều 5); Nhà nước thực hiện quyền định đọat đối với đất đai , trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất và điều tiết các nguồn lợi từ đất đai.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu khoa học " Về quyền sở hữu rừng tự nhiên " Về quyền sở hữu rừng tự nhiên Vũ Long Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam Trong Luật Đất đai 2003, ghi: “ Đất đai thuộc sở hữu tòan dân do Nhà nướcđại diện chủ sở hữu” ( điều 5); Nhà nước thực hiện quyền định đọat đối với đất đai, trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất và điều tiết các nguồn lợi từ đấtđai. Theo Hiến pháp quy định thì rừng tự nhiên cũng thuộc sở hữu tòan dân vàtrong dự thảo Luật BV&PTR, tại khoản 1 điều 6 ghi” Nhà nước sở hữu rừng tựnhiên…”Nhưng theo chúng tôi, tùy cùng là tài nguyên thiên nhiên song tài nguyênrừng tự nhiên có những đặc điểm khác với tài nguyênđất đai và do đó quyền sởhữu rừng của Nhà nước đối với đất đai có khác với rừng tự nhiên.1. Đặc điểm của rừng tự nhiên Hiện trạng rừng tự nhiên. Theo công bố diện tích rừng và đất lâm nghiệp - tòan quốc năm 2002 của Bộ NN&PTNT năm 2002, diện tích rừng tự nhiên tòan quốc là 9.865.020ha, so với năm 1999 tăng lên 394.283ha, trong đó rừng gỗ tăng 219.207ha . 1 Cơ cấu rừng gỗ tự nhiên ( theo tài liệu kiểm kê rừng năm 1999) như sau: Trữ lượng (1000m3) Loại rừng Diện tích (ha)Tổng diện tích rừng gỗ 7.779.647 666.163- cấp trữ lượng I 25.829 4.809- cấp trữ lượng II 160.941 40.232- cấp trữ lượng III 1.178.478 206.118- cấp trữ lượng IV 2.219.671 224.896- cấp trữ lượng V 1.360.116 85.722Rừng non có trữ lượng 2.119.377 104.322Rừng non có trữ lượng 714.377Rừng lá kim 247 61.132 2 Đặc điểm khác biệt cơ bản của rừng tự nhiên và đất đai là: rừng tự nhiên là- tài nguyên tái tạo được, được bảo vệ & phát triển sẽ sinh sôi nẩy nở cả về diện tích, chất lượng và giá trị rừng; có đất đai là tài nguyên không tái tạo được. Rừng luôn gắn với đất đai không thể tách rời. Chu kỳ sinh trưởng của cây rừng tự nhiên rất dài; chu kỳ sản xuất của rừng- tự nhiên thường từ 25-30 năm ( khai thác chọn theo phương án điều chế rừng). Quá trình tái sản xuất trong kinh doanh rừng tự nhiên vừa là quá trình tái sản xuất tự nhiên và quá trình tái sản xuất kinh tế, khi áp dụng phương thức thâm canh rừng thì quá trình tái sản xuất kinh tế ngày càng có vai trò quan trọng. Tiêu chí đo lường rừng tự nhiên khác với đất đai: tiêu chí đo lường đất đai- thông thường là diện tích, tính bằng m2, ha…Nhưng đối với rừng tự nhiên, tiêu chí diện tích là không đủ, đồng thời với diện tích là tiêu chí chất lượng rừng. Thông thường hiện nay mới dùng trữ lượng gỗ m3/ha, là chưa đủ, vì cùng một trữ lượng nhưng tổ thành loài cây khác nhau r ừng có giá trị rất khác nhau. Đối với rừng tự nhiên sản xuất, tiêu chí chất lượng rừng là cực kỳ quan trọng, nó là yếu tố quan trọng nhất để quyết định giá rừng cao hay thấp (tính trên ha). Rừng tự nhiên có giá trị về môi trường sinh thái, đa dạng sinh học và cả- kinh tế, gấp nhiều lần rừng trồng. ở nước ta chưa có nghiên cứu tính giá trị môi trường bằng tiền, nhưng ở các nước phát triển cho thấy giá trị môi trường chiếm trên 90% tổng giá trị của rừng (giá trị lâm sản hàng hóa chỉ chiếm 4-5%). Giá trị môi trường của rừng là giá trị phi hàng hóa, hiện nay tòan xã hội đang sử dụng mà không phải trả phí. 3 Tuy giá trị lâm sản hàng hóa của rừng tự nhiên nhỏ so với tổng giá trị của - rừng, nhưng đối với nền kinh tế địa phương ở vùng còn rừng, rừng tự nhiên vẫn là một nguồn lực đáng kể cho phát triển, đặc biệt là đối với miền núi. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn gắn bó nhiều với rừng tự nhiên, nhất là lâm sản ngoài gỗ.2. Sở hữu rừng tự nhiên. Từ những đặc điểm nêu trên có thể đưa ra nhận xét về quyền sở hữu đối vớirừng tự nhiên ở nước ta như sau:2.1 Hiện nay không phải mọi loại rừng tự nhiên đều thuộc sở hữu Nhà nước.a) Xét về tiêu chí diện tích rừng: Trong 9.440 nghìn ha r ừng gỗ tự nhiên hiện có, có 2.800 nghìn ha rừng non cótrữ lượng và chưa có trữ lượng, chiếm 29,6% tổng diện tích rừng gỗ tự nhiên. Loaịrừng này là kết quả của tái sinh tự nhiên và việc khoanh nuôi có đầu tư của cácchủ rừng. Chủ rừng bỏ vốn đầu tư khoanh nuôi phục hồi rừng không bằng nguồnvốn ngân sách thì quyền sở hữu rừng thuộc về họ chứ không của Nhà nước. Đã cóhàng vạn ha rừng được các chủ rừng khoanh nuôi thành rừng. (Diện tích rừng gỗtự nhiên năm 2002 tăng hơn năm 1999 là 219.207 ha). Đến 2002 Nhà nước đãgiao cho hộ gia đình cá nhân và tập thể 1.553.766 ha rừng gỗ, chủ yếu là rừng 4ngheò kiệt và rừng non phục hồi, và 2.057.199 ha đất trống đồi trọc, trong đó diệntích Ic là 455.994ha, đó là đối tượng khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên. Do đókhẳng đinh rằng hiên nay đã có hàng vạn ha rừng non phục hồi không thuộc sởhữu nhà nước.( tất nhiên diện tích đất vẫn là sở hữu Nhà nước). b) Xét về chỉ tiêu chất lượng rừng: Chất lượng rừng biến đổi theo thời gianphụ thuộc vào quá trình tái sinh tự nhiên và xúc tiến tái sinh do các chủ rừng đầutư. Do đó không phải ở mọi thời điểm sở hữu rừng tự nhiên (xét theo chỉ tiêu chấtlượng, giá trị rừng) đều thuộc sở hữu Nhà nước. - Một ví dụ: Ban đầu Nhà nước giao cho hộ gia đình một diện ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: