Danh mục

Nghiên cứu lịch sử hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam và định hướng tiếp tục hoàn thiện - 75 năm hình thành và phát triển: Phần 2

Số trang: 460      Loại file: pdf      Dung lượng: 2.35 MB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nối tiếp nội dung phần 1, phần 2 cuốn sách "75 năm hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam và định hướng tiếp tục hoàn thiện (1945-2020)" trình bày vai trò của thực tiễn xét xử hình sự đối với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam (1960-2020); tiếp tục hoàn thiện về kỹ thuật lập pháp hệ thống Phần chung pháp luật hình sự thực định Việt Nam hiện hành.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu lịch sử hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam và định hướng tiếp tục hoàn thiện - 75 năm hình thành và phát triển: Phần 2 Chương V VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN XÉT XỬ HÌNH SỰ ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (1960-2020) I. Đề dẫn Chương V 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu thực tiễn xét xử. Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là sau khi Hiến pháp mới năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đi vào cuộc sống, thì việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề về thực tiễn xét xử nói chung và thực tiễn xét xử hình sự nói riêng, đồng thời phân tích để chỉ ra vai trò của nó tại Tòa án nhân dân tối cao nói riêng trong quá trình hình thành, phát triển và tiếp tục phát triển pháp luật hình sự Việt Nam trong 60 năm qua (1960-2020) kể từ khi thành lập Tòa án nhân dân tối cao đến nay với cả hai thời kỳ trước và sau khi pháp điển hóa pháp luật hình sự nước nhà nói riêng là rất cần thiết vì ý nghĩa quan trọng của nó trên 03 bình diện chủ yếu dưới đây: 1.1. Về mặt lập pháp, lịch sử hình thành, phát triển và hoàn thiện của pháp luật hình sự Việt Nam trong 75 năm qua kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến khi thông qua và thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 đến nay (1945-2020) đã cho phép khẳng định rằng: 1) Trong thời kỳ từ sau khi đình chỉ hiệu lực của các đạo luật hình sự cũ mà đặc biệt là trong 25 năm kể từ những năm 60 của thế kỷ XX sau khi thành lập Tòa án nhân dân tối cao cho đến khi thông qua Bộ luật Hình sự đầu tiên của đất nước đã thống nhất (1960-1985) chính là bằng những giải thích (mang tính hướng dẫn) thống nhất có tính chất chỉ đạo về việc áp dụng pháp luật hình sự thuộc hai nhóm văn bản pháp luật hình sự — 1) các 277 nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và 2) Các thông tư liên tịch của các cơ quan Nội chính Trung ương mà trong đa số trường hợp thường là do Tòa án nhân dân tối cao chủ trì (chẳng hạn, 21/28 thông tư liên ngành có liên quan đến việc áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1985 hay 12 thông tư liên tịch có liên quan đến việc áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999) cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương1 — thì thực tiễn xét xử nước ta thực sự đã trở thành một hướng phát triển chủ yếu trong quá trình hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam trước pháp điển hóa lần thứ nhất; 2) Điều này đã cho phép khẳng định rằng, chính thực tiễn xét xử đã đóng vai trò quan trọng việc xây dựng nên các quy phạm pháp luật hình sự trong quá trình 25 năm hình thành và phát triển của pháp luật hình sự nước nhà chưa pháp điển hóa lần thứ nhất (tức kể từ khi hệ thống tòa án nhân dân được tách ra khỏi Bộ Tư pháp theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 cho đến khi thông qua Bộ luật Hình sự năm 1985); 3) Trong thời kỳ 35 năm tiếp theo từ năm 1985 đến nay (2020) kể từ sau 03 lần pháp điển hóa thứ nhất (1985), thứ hai (1999) rồi thứ ba (2015) và đến tận hôm nay (2020), chính là bằng những giải thích (hướng dẫn) có tính chất chỉ đạo đối với việc áp dụng thống nhất pháp luật hình sự trong hai nhóm văn bản pháp luật ở đây. Thực tiễn xét xử hình sự tuy không còn là một trong những nguồn trực tiếp vì Tòa án nhân dân tối cao không còn xây dựng nên cấu thành tội phạm và hình phạt mới trong hệ thống pháp luật hình sự thực định Việt Nam đã pháp điển hóa nữa, nhưng những giải thích (hướng dẫn) thống nhất có tính chất chỉ đạo đó dù sao vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp tục 1. Trong Chương này mỗi khi sử dụng phạm trù “Tòa án nhân dân tối cao” hoặc “cơ quan xét xử cao nhất của đất nước” sau nhóm thuật ngữ “những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao” có ngụ ý bao hàm tất cả các trường hợp mà nhóm thuật ngữ này có trong cả 02 nhóm văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật hình sự — không chỉ có trong 1) Các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do cơ quan này ban hành (vì khi thông qua đều có sự nhất trí của đại diện các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương như Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và/hoặc Bộ Tư pháp cùng tham dự), mà còn có cả trong 2) Các thông tư liên ngành do Tòa án nhân dân tối cao cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương đã nêu cùng ban hành. 278 phát triển pháp luật hình sự nước nhà. Như vậy, chính các cán bộ Tòa án nhân dân tối cao (từ người lãnh đạo cao nhất đến các chuyên gia trong lĩnh vực tư pháp hình sự) thời kỳ trước năm 2002 là những người đã có công rất lớn xây dựng nên hệ thống pháp luật hình sự đã hình thành và phát triển của nước ta1. 1.2. Về mặt lý luận, chính bằng những giải thích (hướng dẫn) thống nhất có tính chất chỉ đạo trong hai nhóm văn bản pháp luật nêu trên được thể hiện thông qua hai hình thức chủ yếu là sáng tạo pháp luật (1) và hoạt động xét xử (2) của Tòa án nhân dân tối cao ở các mức độ khác nhau đã giải quyết, phát triển và làm sáng tỏ nhiều khái niệm, phạm trù và luận điểm của luật hình sự; và chính từ những vấn đề này đã góp phần quan trọng trong việc hình thành và soạn thảo ra các tư tưởng, quan điểm của khoa học luật hình sự Việt Nam đối với nhiều quy phạm và nhiều chế định pháp luật hình sự tương ứng mà sau này chúng đã được nhà làm luật Việt Nam pháp điển hóa và ghi nhận trong hệ thống pháp luật hình sự quốc gia (kể từ Bộ luật Hình sự năm 1985 đến Bộ luật Hình sự năm 2015). 1. Mặt khác, trong những năm 80 của thế kỷ XX (1982-1989) với tư cách là chuyên viên Vụ Nghiên cứu pháp luật (mà sau này là Viện Nghiên cứu khoa học xét xử và hiện nay là Vụ Pháp chế và quản lý khoa học) thuộc Tòa án nhân dân tối cao nên tác giả những dòng này là nhân chứng trực tiếp trong việc soạn thảo Bộ luật Hình sự năm 1985 đã nhận thấy một sự thật rằng: các cố luật gia lão thành giỏi và đầy kinh nghiệm t ...

Tài liệu được xem nhiều: