Danh mục

Nghiên cứu triết học KHOAN DUNG THUẬT NGỮ VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 170.12 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết đề cập đến vấn đề khoan dung trên hai khía cạnh: thuật ngữ và sự vận động của tư tưởng khoan dung trong lịch sử triết học phương Tây. Sự vận động này chịu sự quy định của các điều kiện xã hội - lịch sử. Xem xét lịch sử vận động, phát triển của tư tưởng khoan dung trong triết học phương Tây, tác giả chỉ ra những nội dung cơ bản và phạm vi thể hiện nổi trội của tư tưởng này cũng như những hạn chế trong cách hiểu về khoan dung trong lịch sử;...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu triết học " KHOAN DUNG THUẬT NGỮ VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY " Nghiên cứu triết họcKHOAN DUNG THUẬT NGỮ VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NÓTRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂYKHOAN DUNG THUẬT NGỮ VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NÓ TRONG LỊCHSỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY NGUYỄN THỊ PHƯƠNG MAI (*)Bài viết đề cập đến vấn đề khoan dung trên hai khía cạnh: thuật ngữ và sựvận động của tư tưởng khoan dung trong lịch sử triết học ph ương Tây. Sựvận động này chịu sự quy định của các điều kiện xã hội - lịch sử. Xem xétlịch sử vận động, phát triển của tư tưởng khoan dung trong triết họcphương Tây, tác giả chỉ ra những nội dung cơ bản và phạm vi thể hiện nổitrội của tư tưởng này cũng như những hạn chế trong cách hiểu về khoandung trong lịch sử; đồng thời, khẳng định giá trị trong quan niệm về khoandung qua Tuyên ngôn những nguyên lý về khoan dung của UNESCO.Nhân loại đang ra sức phấn đấu để có cuộc sống sung túc về kinh tế, lànhmạnh về văn hoá và tinh thần cũng như có một nền hoà bình bền vững trêntoàn thế giới. Tuy nhiên, có không ít những sự đe dọa ước vọng cao đẹp vàchính đáng ấy của con người. Đó có thể là những mâu thuẫn, xung đột vềvăn hoá, về chủng tộc, về dân tộc, về x ã hội, về tôn giáo và về kinh tế đangdiễn ra khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, tự cho mình là nước có nền vănminh tiên tiến hơn, các nước có sức mạnh về kinh tế đang muốn áp đặt lốisống và văn hoá của họ lên các cộng đồng và các dân tộc khác. Ngược lạivới xu hướng đó, xu hướng chống lại sự áp đặt văn hoá cũng đang diễn raquyết liệt nhằm bảo vệ bản sắc văn hoá riêng của nhiều cộng đồng và dântộc.Tổ chức UNESCO đã đề ra thập niên văn hoá hoà bình (2001 – 2010) nhưhình thức chung sống văn minh nhất của thời đại ngày nay, văn hoá củahiện tại và tương lai, trong đó, khoan dung là điều kiện tiên quyết và đãphát động Năm quốc tế về khoan dung (The United Nations Years forTolerance) từ năm 1995 mở đầu cho tiến trình hướng đến mục đích trên. Sựkhoan dung không chỉ là việc nắm lấy những nguyên tắc sống cơ bản, màcòn là điều kiện cho hoà bình, cho phát triển kinh tế và sự tiến bộ của xãhội. Mục đích của Lời kêu gọi khoan dung do Tổng Giám đốc UNESCO,ông Federico Mayor, nêu ra trước hết là làm cho sự khoan dung ăn sâukhông những trong tâm trí của mọi người như một thái độ ứng xử, mà cảtrong những cách bố trí của sự vận hành xã hội và chính trị chi phối và tạodựng những mối quan hệ giữa con người với con người.Phương châm Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồngthế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển đã thể hiện rõ quanđiểm của Việt Nam trong xu hướng chung của thời đại. Để thực hiện đượcphương châm này, Việt Nam không những biết lắng nghe, chấp nhận sựkhác biệt với mình để hoà nhập, mà còn nhận thức rõ đó là cách tốt nhất đểbảo vệ nền văn hoá của chính mình. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toànquốc lần thứ X, Đảng ta chủ trương thực hiện một “chính sách đối ngoạirộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam làbạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tíchcực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”(1). Điều này thể hiện rõ sựkế thừa tinh thần khoan dung trong văn hoá Việt Nam.Một thời, khoan dung được hiểu là thái độ, cách ứng xử có liên quan đếncác tôn giáo. Tuy nhiên, trên thực tế, nó được mở rộng ra cả lĩnh vực triếthọc, chính trị, v.v.. Về mặt triết học, thuật ngữ khoan dung được sử dụngtrực tiếp và khá rõ ràng vào các thế kỷ XVI và XVII. Ngày nay, khái niệmkhoan dung được hiểu rộng hơn nhiều so với các thế kỷ trước và giữ vị trínổi bật trong văn hoá nhân loại. Một trong những khác biệt trong cách hiểuvề khoan dung là ở chỗ, ngày nay, khoan dung bao hàm ý nghĩa là một sựđối thoại ngay cả với những người có tín ngưỡng, có niềm tin trái ngượcnhau.Có thể nói rằng, nội dung cơ bản của khái niệm khoan dung là biết đánhgiá, tiếp nhận những giá trị nhân bản của các nền văn hoá khác để l àm giàucho bản sắc văn hoá của mình. Nhưng, để hiểu rõ nội hàm của khoan dung,cần phải nghiên cứu nó từ nhiều góc độ khác nhau.Khoan dung là một thuật ngữ có trong nhiều ngôn ngữ và có sự khác nhaunhất định khi sử dụng. Trong tiếng Việt, khái niệm này đã có từ lâu, nhưngchỉ mới được sử dụng một cách phổ biến từ những năm 90 của thế kỷtrước. Do đó, việc sử dụng một thuật ngữ với nội hàm chưa được xác địnhthống nhất trong điều kiện mới đã gây ra những khó khăn nhất định. Khoandung, trong tiếng Anh, là tolerance, tolerant, tolerate và toleration; trongtiếng Pháp là tolérance, tolérant, tolérer và bắt nguồn từ tiếng Latinh làtolerare và tolerantia. Theo các từ điển dịch sang tiếng Việt, những từ đóđều được dịch là khoan dung, mặc dù ở những loại từ khác nhau.Riêng trong tiếng Nga, khoan dung có hai từ đều được sử dụng giống nhau.ềồðùốỡợủũỹ có nghĩa là khoan dung và là từ thuần Nga, từ thứ hai có gốcxuất phát từ tiếng Latinh là ềợởồðà ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: