Nghiên cứu triết học KHOAN DUNG TÔN GIÁO - MỘT TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGƯỜI VIỆT
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 151.79 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Có ý kiến cho rằng, khoan dung tôn giáo là cái không có sẵn trong truyền thống văn hoá - lịch sử của Việt Nam, mà “khoan dung” chỉ diễn ra khi chịu sự áp đặt từ bên ”trên” hay từ bên ”ngoài”. Mọi sự dung nạp, cọ xát và đi đến tiếp nhận các tôn giáo cũng như các hệ thống tư tưởng của người Việt đều theo một hệ thống áp đặt từ “trên” xuống. Trong bài viết này, chúng tôi muốn chứng minh rằng, tính khoan dung ở người Việt có được không hẳn chỉ từ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu triết học " KHOAN DUNG TÔN GIÁO - MỘT TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGƯỜI VIỆT "KHOAN DUNG TÔN GIÁO - MỘT TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGƯỜIVIỆT ĐỖ LAN HIỀN (*)Có ý kiến cho rằng, khoan dung tôn giáo là cái không có sẵn trong truyền thốngvăn hoá - lịch sử của Việt Nam, mà “khoan dung” chỉ diễn ra khi chịu sự áp đặttừ bên ”trên” hay từ bên ”ngoài”. Mọi sự dung nạp, cọ xát và đi đến tiếp nhậncác tôn giáo cũng như các hệ thống tư tưởng của người Việt đều theo một hệthống áp đặt từ “trên” xuống. Trong bài viết này, chúng tôi muốn chứng minhrằng, tính khoan dung ở người Việt có được không hẳn chỉ từ khi chịu ảnh hưởngcủa Tam giáo hay của sự áp đặt từ bên ”trên”, mà chỉ có thể nói rằng, tư tưởngTam giáo đã “bắt gặp” và củng cố thêm nữa tính khoan dung nơi người Việt.Tam giáo tồn tại, phát triển và trở thành một trong những thành tố của văn hoábản địa là một hệ quả của tính khoan dung, chứ không phải khoan dung l à hệquả theo sau của Tam giáo. Khoan dung tôn giáo chính l à một nhu cầu nội tạicủa người Việt Nam.Khoan dung hiểu theo ngôn ngữ thông thường là sự nới rộng, độ lượng, khôngkhắt khe chặt chẽ. Hiểu theo nghĩa triết học, đó là thái độ hiếu hoà, tôn trọng vớinhững cái khác mình, không loại trừ, khai trừ, kỳ thị hay lo sợ những cái khácmình hay khác lạ. Đức tính khoan dung, khoan hoà được coi là một căn tính cơbản, nổi trội của người Việt; trong đó, khoan dung đối với tôn giáo đã trở thànhmột thái độ, một lối ứng xử, một thứ triết lý sống, triết lý nhân sinh của ngườiViệt.Có ý kiến cho rằng, khoan dung tôn giáo là cái không có sẵn trong truyền thốngvăn hoá - lịch sử của Việt Nam, mà “khoan dung” chỉ diễn ra khi chịu sự áp đặttừ bên trên hay từ bên ngoài. Mọi sự dung nạp, cọ xát và đi đến tiếp nhận tôngiáo cũng như các hệ thống tư tưởng của người Việt đều theo một hệ thống ápđặt từ “trên” xuống, bởi xã hội Việt Nam trong lịch sử là một xã hội phong kiếntập quyền, khép kín, áp đặt; do đó, cơ sở luân thường đạo lý của xã hội là do bềtrên quyết định theo kiểu vua nói dân phải nghe, cha nói con phải theo. Mọi giátrị, chuẩn mực, luân lý một khi đã được vua và cha thừa nhận thì cũng coi đó làchân lý phổ quát, bất phân chân - giả. Về mặt tôn giáo, triều đình thường kiểmsoát tất cả các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng dưới mọi hình thức, như mở khoathi tam giáo(1), cấp phát ruộng đất, tiền nong và cả việc bố trí người tu hành làmviệc trong các chùa, quán. Các tín ngưỡng dân gian thì bị kiểm soát sự tích, chỉnhững vị thần có sắc phong mới được thờ cúng, v.v.. Sống trong một hoàn cảnh,một xã hội như vậy, ít ai dám đi ra ngoài quỹ đạo chung. Theo quan điểm trên,con người trong xã hội phong kiến luôn bị “chìm” trong tập thể, chưa có vị tríđộc lập, mọi tư tưởng và hành động đều do bậc trên - vua hay gia đình - quyếtđịnh. Lâu dần thành quen, họ quên cái tôi của mình và không còn muốn ở cái thếtự mình lựa chọn. Hơn nữa, người dân thường ít học, do đó mà dễ thuận theotruyền thống, không dám tự mình lựa chọn. Người Việt xưa và nay đều thườnglựa chọn tôn giáo theo truyền thống gia đình - làng xã - cộng đồng, rất hiếm cótrường hợp khác đạo xảy ra với các thành viên trong một gia đình, nhất là đối vớiđạo Công giáo. Nếu cha ông theo đạo Công giáo thì con cháu họ tất yếu cũng sẽlà tín đồ Công giáo; ngược lại, nếu một người muốn theo đạo Công giáo nhưngcha ông lại không theo đạo thì họ sẽ gặp nhiều cản trở rất khó vượt qua trongviệc theo đạo ấy. Một Già làng của một bộ tộc thiểu số chịu phép rửa tội thì cảlàng, cả bản ấy sẽ làm theo…(2). Với những lập luận đó, người ta đi đến kết luậnrằng, người Việt theo Khổng giáo, Đạo giáo, Phật giáo một cách rất tự nhiên, đếnđộ cảm giác rằng các tôn giáo, tư tưởng ấy là một thành phần văn hoá của dân tộcvà chúng ta dễ đi đến ngộ nhận là người Việt có đức tính khoan dung đối với mọiloại tôn giáo, tư tưởng. Thực chất, người Việt theo Khổng, theo Đạo, Phật là vì cáctôn giáo, tư tưởng đó đã được các tầng lớp trên trong xã hội ủng hộ và thừa nhận.Sau khi cái văn hoá Tam giáo ấy đã ăn sâu vào người Việt thì tinh thần khoan dungcủa họ là do chịu ảnh hưởng từ Tam giáo, nói khác đi là chịu ảnh hưởng từ bênngoài.Những nhận định trên ít nhiều có điểm hợp lý. Chúng tôi không phủ nhận quanđiểm cho rằng, văn hoá Việt Nam qua mấy nghìn năm là sự tổng hợp, hỗn giaocác trào lưu văn hoá khác nhau từ bên ngoài. Và tinh thần Tam giáo (Nho, Phật,Lão) được dùng làm tư tưởng cơ bản về vũ trụ, nhân sinh của người Việt, nênngười Việt cũng tiếp thu được tinh thần khoan dung từ Tam giáo. Nhưng chúngtôi muốn trao đổi thêm về vấn đề này.Trước hết, cần lưu ý rằng, Nho, Phật, Lão đều du nhập vào Việt Nam khi ngườiViệt đã có một nền văn hoá trước đấy - Đông Sơn. Theo những nghiên cứu khảocổ học, văn hoá Đông Sơn đã hội tụ đầy đủ những tinh tuý để làm nên một cộngđồng người Việt, làm nên một nhà nước Văn Lang đầu tiên. Người Việt lúc đó đãcó một quan niệm nh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu triết học " KHOAN DUNG TÔN GIÁO - MỘT TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGƯỜI VIỆT "KHOAN DUNG TÔN GIÁO - MỘT TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGƯỜIVIỆT ĐỖ LAN HIỀN (*)Có ý kiến cho rằng, khoan dung tôn giáo là cái không có sẵn trong truyền thốngvăn hoá - lịch sử của Việt Nam, mà “khoan dung” chỉ diễn ra khi chịu sự áp đặttừ bên ”trên” hay từ bên ”ngoài”. Mọi sự dung nạp, cọ xát và đi đến tiếp nhậncác tôn giáo cũng như các hệ thống tư tưởng của người Việt đều theo một hệthống áp đặt từ “trên” xuống. Trong bài viết này, chúng tôi muốn chứng minhrằng, tính khoan dung ở người Việt có được không hẳn chỉ từ khi chịu ảnh hưởngcủa Tam giáo hay của sự áp đặt từ bên ”trên”, mà chỉ có thể nói rằng, tư tưởngTam giáo đã “bắt gặp” và củng cố thêm nữa tính khoan dung nơi người Việt.Tam giáo tồn tại, phát triển và trở thành một trong những thành tố của văn hoábản địa là một hệ quả của tính khoan dung, chứ không phải khoan dung l à hệquả theo sau của Tam giáo. Khoan dung tôn giáo chính l à một nhu cầu nội tạicủa người Việt Nam.Khoan dung hiểu theo ngôn ngữ thông thường là sự nới rộng, độ lượng, khôngkhắt khe chặt chẽ. Hiểu theo nghĩa triết học, đó là thái độ hiếu hoà, tôn trọng vớinhững cái khác mình, không loại trừ, khai trừ, kỳ thị hay lo sợ những cái khácmình hay khác lạ. Đức tính khoan dung, khoan hoà được coi là một căn tính cơbản, nổi trội của người Việt; trong đó, khoan dung đối với tôn giáo đã trở thànhmột thái độ, một lối ứng xử, một thứ triết lý sống, triết lý nhân sinh của ngườiViệt.Có ý kiến cho rằng, khoan dung tôn giáo là cái không có sẵn trong truyền thốngvăn hoá - lịch sử của Việt Nam, mà “khoan dung” chỉ diễn ra khi chịu sự áp đặttừ bên trên hay từ bên ngoài. Mọi sự dung nạp, cọ xát và đi đến tiếp nhận tôngiáo cũng như các hệ thống tư tưởng của người Việt đều theo một hệ thống ápđặt từ “trên” xuống, bởi xã hội Việt Nam trong lịch sử là một xã hội phong kiếntập quyền, khép kín, áp đặt; do đó, cơ sở luân thường đạo lý của xã hội là do bềtrên quyết định theo kiểu vua nói dân phải nghe, cha nói con phải theo. Mọi giátrị, chuẩn mực, luân lý một khi đã được vua và cha thừa nhận thì cũng coi đó làchân lý phổ quát, bất phân chân - giả. Về mặt tôn giáo, triều đình thường kiểmsoát tất cả các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng dưới mọi hình thức, như mở khoathi tam giáo(1), cấp phát ruộng đất, tiền nong và cả việc bố trí người tu hành làmviệc trong các chùa, quán. Các tín ngưỡng dân gian thì bị kiểm soát sự tích, chỉnhững vị thần có sắc phong mới được thờ cúng, v.v.. Sống trong một hoàn cảnh,một xã hội như vậy, ít ai dám đi ra ngoài quỹ đạo chung. Theo quan điểm trên,con người trong xã hội phong kiến luôn bị “chìm” trong tập thể, chưa có vị tríđộc lập, mọi tư tưởng và hành động đều do bậc trên - vua hay gia đình - quyếtđịnh. Lâu dần thành quen, họ quên cái tôi của mình và không còn muốn ở cái thếtự mình lựa chọn. Hơn nữa, người dân thường ít học, do đó mà dễ thuận theotruyền thống, không dám tự mình lựa chọn. Người Việt xưa và nay đều thườnglựa chọn tôn giáo theo truyền thống gia đình - làng xã - cộng đồng, rất hiếm cótrường hợp khác đạo xảy ra với các thành viên trong một gia đình, nhất là đối vớiđạo Công giáo. Nếu cha ông theo đạo Công giáo thì con cháu họ tất yếu cũng sẽlà tín đồ Công giáo; ngược lại, nếu một người muốn theo đạo Công giáo nhưngcha ông lại không theo đạo thì họ sẽ gặp nhiều cản trở rất khó vượt qua trongviệc theo đạo ấy. Một Già làng của một bộ tộc thiểu số chịu phép rửa tội thì cảlàng, cả bản ấy sẽ làm theo…(2). Với những lập luận đó, người ta đi đến kết luậnrằng, người Việt theo Khổng giáo, Đạo giáo, Phật giáo một cách rất tự nhiên, đếnđộ cảm giác rằng các tôn giáo, tư tưởng ấy là một thành phần văn hoá của dân tộcvà chúng ta dễ đi đến ngộ nhận là người Việt có đức tính khoan dung đối với mọiloại tôn giáo, tư tưởng. Thực chất, người Việt theo Khổng, theo Đạo, Phật là vì cáctôn giáo, tư tưởng đó đã được các tầng lớp trên trong xã hội ủng hộ và thừa nhận.Sau khi cái văn hoá Tam giáo ấy đã ăn sâu vào người Việt thì tinh thần khoan dungcủa họ là do chịu ảnh hưởng từ Tam giáo, nói khác đi là chịu ảnh hưởng từ bênngoài.Những nhận định trên ít nhiều có điểm hợp lý. Chúng tôi không phủ nhận quanđiểm cho rằng, văn hoá Việt Nam qua mấy nghìn năm là sự tổng hợp, hỗn giaocác trào lưu văn hoá khác nhau từ bên ngoài. Và tinh thần Tam giáo (Nho, Phật,Lão) được dùng làm tư tưởng cơ bản về vũ trụ, nhân sinh của người Việt, nênngười Việt cũng tiếp thu được tinh thần khoan dung từ Tam giáo. Nhưng chúngtôi muốn trao đổi thêm về vấn đề này.Trước hết, cần lưu ý rằng, Nho, Phật, Lão đều du nhập vào Việt Nam khi ngườiViệt đã có một nền văn hoá trước đấy - Đông Sơn. Theo những nghiên cứu khảocổ học, văn hoá Đông Sơn đã hội tụ đầy đủ những tinh tuý để làm nên một cộngđồng người Việt, làm nên một nhà nước Văn Lang đầu tiên. Người Việt lúc đó đãcó một quan niệm nh ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
báo cáo khoa học nghiên cứu khoa học triết học tư tưởng hồ chí minh chủ nghĩa mac leninGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1546 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 487 0 0 -
40 trang 444 0 0
-
27 trang 345 2 0
-
57 trang 337 0 0
-
33 trang 329 0 0
-
63 trang 308 0 0
-
Giáo trình Chính trị (Trình độ: Trung cấp nghề) - Trường Trung cấp nghề Củ Chi
84 trang 302 1 0 -
Tiểu luận triết học - Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội
13 trang 286 0 0 -
20 trang 284 0 0