Thời gian gần đây xuất hiện nhiều trường hợp ngộ độc do uống rượu có pha cồn công nghiệp methanol khiến không ít nạn nhân tử vong. Bài viết dưới đây nhằm mục đích nhắc lại về độc tính của methanol, các triệu chứng và dấu hiệu ngộ độc cùng các nguyên tắc chính để việc xử lý cấp cứu được nhanh chóng và chính xác.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ngộ Độc Methanol Ngộ Độc Methanol Rượu kích thích dục vọng nhưng lại thiêu rụi tài năng (William Shakespeare) Thời gian gần đây xuất hiện nhiều trường hợp ngộ độc do uống rượu có phacồn công nghiệp methanol khiến không ít nạn nhân tử vong. Bài viết dưới đâynhằm mục đích nhắc lại về độc tính của methanol, các triệu chứng và dấu hiệu ngộđộc cùng các nguyên tắc chính để việc xử lý cấp cứu được nhanh chóng và chínhxác. 1. Tổng Quan Methanol là một loại rượu có độc tính cao thường gặp trong chất dung môidùng lau kính xe, chất chống đóng băng cho ống dẫn xăng dầu, dung dịch mực incho máy photocopy, nhiên liệu cho các bếp lò nhỏ, dùng pha sơn, và như một chấtdung môi công nghiệp (Budavari 1996; Suit 1990). Hiện nay có thêm những ứngdụng mới cho methanol, nhất là việc đề nghị sử dụng nó như một nguồn nănglượng thay thế. Nếu các ứng dụng này được triển khai, methanol trong tương lai sẽđược tiếp cận dễ dàng hơn và do đó càng dễ bị lạm dụng. Giống như trường hợp của ethylene glycol, diễn tiến lâm sàng của ngộ độcmethanol xảy ra nhiều giờ sau khi uống. Trong khi methanol chỉ gây ngộ độc nhẹ,những chất chuyển hoá của nó lại có độc tính rất cao, gây nhiễm toan (acidosis),mù mắt, và khả năng tử vong. Do tình trạng ngộ độc methanol nặng thường liênquan đến sự chậm trễ trong điều trị, việc phân biệt giữa ngộ độc thực sự hay chỉ lànghi ngờ tạo ra nhiều thách thức cho thầy thuốc lâm sàng vì những xét nghiệm,các thuốc giải độc và vấn đề chăm sóc đặc biệt không phải lúc nào cũng luôn luônsẵn có. Liều tử vong của methanol tinh chất ước lượng khoảng 1-2 mL/kg(Jacobsen 1986); tuy nhiên, đã có báo cáo về trường hợp mù vĩnh viễn và tử vongvới liều chỉ khoảng 0,1 mL/kg (6-10 mL ở người lớn) (ATSDR 1993). 2. Tần Suất Báo cáo của Hệ Thống Theo Dõi Nhiễm Độc (Toxic Exposure SurveillanceSystem =TESS) thuộc Hiệp Hội Các Trung Tâm Kiểm Soát Độc Tố Mỹ(American Association of Poison Control Centers =AAPCC), đã thống kê được2.610 trường hợp ngộ độc methanol trong năm 2002 . Có 18 trường hợp tử vongdo methanol và 55 trường hợp cận- tử vong (Watson 2002). 3. Tính Chất Hoá Học Methanol, còn được gọi là methyl alcohol hay rượu gỗ (wood alcohol, dođược chưng cất từ gỗ) là một rượu đơn có công thức hoá học CH3OH, trọng lượngphân tử 32,04, tỷ trọng 0,81 và nhiệt độ sôi là 65° C. Methanol không màu, dễ bayhơi, dễ cháy và hoà tan tốt trong nước (Budavari 1996). Methanol có mùi nhẹ vàkhác biệt rõ với ethanol. 4. Dược Động Học Methanol hấp thu dễ dàng qua ruột, da và phổi. Nồng độ huyết thanh caonhất xảy ra 30-60 phút sau khi uống. Methanol phân tán rộng khắp trong cơ thểvới một thể tích phân phối (volume distribution) là 0,6 L/kg. Methanol đượcchuyển hoá chậm qua gan. Khoảng 3% liều methanol được bài tiết qua phổi hoặcbài tiết không thay đổi qua thận. Thời gian bán huỷ của methanol kéo dài 30-50giờ khi điều trị bằng thuốc giải độc (Palatnick 1995). 5. Cơ chế của độc tính Giống ethylene glycol, methanol tương đối ít độc; tuy nhiên, nó đượcchuyển hoá thành những hợp chất có độc tính cao gây toan chuyển hoá và mù mắtđiển hình cho ngộ độc methanol. Tương tự ngộ độc ethylene glycol, bước đầu tiên của sự chuyển hoámethanol liên quan đến men dehydrogenase rượu (ADH) . Đầu tiên, methanolđược oxy-hoá chậm bởi ADH để cho ra formaldehyde. Kế đến, formaldehyde bịoxy-hoá bởi formaldehyde dehydrogenase cho ra acid formic (hoặc formate, tuỳthuộc vào pH). Sự oxy-hoá xảy ra nhanh nên chỉ có ít formaldehyde tích tụ tronghuyết thanh. Cuối cùng, acid formic được chuyển hoá thành dioxide carbon vànước, sẽ được đào thải qua phổi và thận. Các bước chuyển hoá của methanol (Brent 2001): Methanol-->(oxy-hoá chậm bởi men dehydrogenase rượu ADH)-->formaldehyde-->oxy-hoá bởi formaldehyde dehydrogenase-->acid formic hoặcformate-->dioxide carbon + H2O Acid formic tích tụ là nguyên nhân gây toan chuyển hoá. Acid formic cònức chế hô hấp tế bào dẫn đến toan chuyển hoá lactic. Tổn thương mắt gây ra bởimethanol có thể do tổn thương võng mạc, do hậu quả của chuyển hoá methanoltrong võng mạc và sự tích tụ của acid formic . Ngoài ra, tổn thương mắt còn có thểdo ức chế sự chuyển hoá bình thường trong những tế bào thần kinh thị giác(Jacobsen 1997). 6. Diễn Tiến Lâm Sàng Triệu chứng đầu tiên của ngộ độc methanol xảy ra từ 12 giờ đến 24 giờ saukhi uống rượu, có thể giống ngộ độc ethanol và bao gồm chóng mặt, lú lẫn, thấtđiều vận động, yếu cơ, nhức đầu, buồn nôn, nôn, và đau bụng. Nhìn chung, cáctriệu chứng này có thể giống say rượu và do nhiễm độc nhẹ do ethanol gây ra. Khi sự chuyển hoá methanol tiếp diễn, toan chuyển hoá do khoảng trốnganion (anion gap) sẽ phát triển. Toan chuyển hoá nặng cùng với những tác độngtrên thị giác là hai điểm chủ yếu của ngộ độc methanol. Người ...