Danh mục

Ngôi bất thường (Kỳ 3)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 182.61 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

1. Đại cương Ngôi trán là ngôi mà phần trán trình diện trước eo trên- là ngôi trung gian giữa ngôi chỏm và ngôi mặt, nghĩa là ngôi đầu cúi không tốt hoặc ngửa không tốt. Mốc của ngôi trán là gốc mũi. Tỉ lệ thường gặp khoảng 1-2/1000 các ca đẻ.Đây là ngôi thai bất thường, không thể đẻ đường âm đạo được vì đường kính của ngôi là thượng chẩm - cằm (13,5 cm) không lọt được qua đường kính chéo của eo trên (12 - 12,5 cm), trừ khi thai quá nhỏ, khung chậu bình thường,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ngôi bất thường (Kỳ 3) Ngôi bất thường (Kỳ 3) NGÔI TRÁN 1. Đại cương Ngôi trán là ngôi mà phần trán trình diện trước eo trên- là ngôi trung giangiữa ngôi chỏm và ngôi mặt, nghĩa là ngôi đầu cúi không tốt hoặc ngửa không tốt.Mốc của ngôi trán là gốc mũi. Tỉ lệ thường gặp khoảng 1-2/1000 các ca đẻ. Đây là ngôi thai bất thường, không thể đẻ đường âm đạo được vì đườngkính của ngôi là thượng chẩm - cằm (13,5 cm) không lọt được qua đường kínhchéo của eo trên (12 - 12,5 cm), trừ khi thai quá nhỏ, khung chậu bình thường,hoặc ngôi trán cao lỏng cúi thêm để biến thành ngôi chỏm hoặc ngửa thêm để biếnthành ngôi mặt trong chuyển dạ, dưới sức đẩy của cơn co tử cung. Người ta cũng coi ngôi thóp trước là một loại ngôi trán đặc biệt. Có thể gọingôi thóp trước là ngôi trán hơi cúi, thóp trước trình diện trước eo trên, tiên lượngvà cách xử trí giống ngôi trán. 2. Nguyên nhân: Ngôi trán thường là thứ phát, có những yếu tố thuận lợi gây ra ngôi trántrong khi chuyển dạ như sau: * Về phía mẹ: con rạ đẻ nhiều lần, cơ tử cung nhão; tử cung lệch trục;khung chậu dẹt. Ngôi trán gặp nhiều ở con rạ hơn con so. * Về phía thai và phần phụ của thai: thai to, đầu dài; rau tiền đạo; dây raungắn, quấn cổ; đa ối. 3. Triệu chứng, chẩn đoán 3.1. Trong khi có thai: không thể chẩn đoán được ngôi trán vì ngôi trán chỉxảy ra khi đã chuyển dạ. 3.2. Trong khi chuyển dạ: * Chẩn đoán xác định: - Nhìn không thấy gì đặc biệt. - Nắn cực dưới tử cung có thể thấy đầu cúi không tốt, sờ thấy bướu chẩmvà rãnh gáy. - Thăm âm đạo khi cổ tử cung đã mở, ối đã vỡ, ngôi xuống thấp cho phépchẩn đoán xác định: + Sờ thấy trán ở giữa tiểu khung, có đường khớp giữa 2 xương trán, ở đầutrên là thóp trước với hình trám, đầu dưới là 2 hố mắt, gốc mũi và 2 lỗ mũi, có thểsờ được tới hàm trên nhưng không sờ thấy mồm và cằm thai nhi. + Không sờ thấy thóp sau. * Chẩn đoán thế, kiểu thế: - Chẩn đoán thế: dựa vào mốc của ngôi ở bên trái hay bên phải của khungchậu. Mốc của ngôi là gốc mũi (không bao giờ bị phù nề), đối diện với lưng. Dođó, khi sờ nắn thấy lưng bên nào thì thế ở bên đối diện. - Chẩn đoán kiểu thế: dựa vào mốc của ngôi ở nửa trước hay nửa sau củakhung chậu để chẩn đoán kiểu thế, có 4 kiểu thế lọt theo thứ tự thường gặp là: + Mũi - chậu - trái - trước (M.C.T.T). + Mũi - chậu - phải - sau (M.C.P.S). + Mũi - chậu - phải trước (M.C.P.T). * Chẩn đoán phân biệt: - Với ngôi chỏm: trong ngôi chỏm sẽ sờ thấy thóp sau hình tam giác, khôngsờ được gốc mũi. - Với ngôi mặt: trong ngôi mặt sờ thấy cả trán, gốc mũi, mồm và cằm (mốccủa ngôi), còn trong ngôi trán có thể sờ được từ trán tới hàm trên nhưng không baogiờ sờ thấy miệng và cằm thai nhi. - Với ngôi thóp trước: là ngôi trán hơi cúi, mốc của ngôi là thóp trước; dogốc mũi ở gần bờ của khung chậu nên chỉ có thể sờ được thóp trước, trán, gốc mũimà không sờ được tới hàm trên. 4. Cơ chế đẻ ngôi trán * Khi thai đủ tháng, trọng lượng thai trung bình hoặc thai to, ngôi tránkhông thể đẻ được đường âm đạo vì đường kính của ngôi quá lớn (thượng chẩm -cằm 13,5 cm) không lọt qua eo trên được, phải mổ lấy thai. * Khi trọng lượng thai rất nhỏ, khung chậu bình thường, ngôi trán có thể đẻđược đường âm đạo nhưng khó khăn hơn ngôi chỏm. Vì vậy cần nghiên cứu cơchế đẻ ngôi trán trong trường hợp này. Do các đường kính lọt của đầu thai to hơn các đường kính của eo trên nênmuốn lọt được đầu thai nhi phải lọt không đối xứng, hoặc là đầu cúi hơn để chobướu chẩm lọt trước và khối mặt lọt sau hoặc ngược lại. Nếu lọt được, xuống và quay cũng rất chậm và khó khăn. Khi mũi đã ở bờdưới khớp mu, chẩm ở trong hõm xương cùng, thai bắt đầu sổ. Cơ chế sổ ngôi trángần giống cơ chế sổ chẩm-cùng trong ngôi chỏm (đầu phải cúi rồi ngửa). Khi hàmtrên cố định ở dưới khớp mu, đầu cúi dần để các phần mũi, trán, thóp trước, chẩm,hạ chẩm lần lượt sổ ra ngoài. Sau đó đầu phải ngửa dần để miệng và cằm sổ rakhỏi khớp mu. Khi sổ dễ gây rách tầng sinh môn, vì vậy cần cắt nới rộng tầng sinhmôn trước khi thai sổ. Sau sổ, kiểm tra thai thường thấy có hiện tượng uốn khuônrất nhiều, trán nhô cao và đầu dài theo đường kính chẩm-cằm. ...

Tài liệu được xem nhiều: