Người già, phổi cũng già theo
Viêm phổi là bệnh người già thường gặp. Những người có nguy cơ là người có thể trạng kém suy yếu, gầy còm, nghiện rượu, mắc các bệnh mạn tính, bệnh đái tháo đường và sau khi bị cúm. Bệnh phổi cấp tính cũng là một trong những nguyên nhân tử vong chính của người già.
Tại sao người cao tuổi dễ bị viêm phổi?
Phổi lúc về già bị giảm cả về khối lượng và thể tích, trở nên ít di động. Độ đàn hồi thành phế nang bị giảm và bị giãn hẳn ra. Khi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Người già, phổi cũng già theo
Người già, phổi cũng già theo
Viêm phổi là bệnh người già thường gặp. Những người có nguy cơ là người
có thể trạng kém suy yếu, gầy còm, nghiện rượu, mắc các bệnh mạn tính, bệnh
đái tháo đường và sau khi bị cúm. Bệnh phổi cấp tính cũng là một trong những
nguyên nhân tử vong chính của người già.
Tại sao người cao tuổi dễ bị viêm phổi?
Phổi lúc về già bị giảm cả về khối lượng và thể tích, trở nên ít di động. Độ đàn
hồi thành phế nang bị giảm và bị giãn hẳn ra. Khi lão hóa dung tích chung bị giảm đặc
biệt giảm dung tích sống (DTS) của phổi. Theo tính toán, trên người Việt Nam, DTS
của nam giới lúc 25 tuổi là 3,82 lít, lúc 60 - 64 tuổi chỉ còn lại 2,57 lít. Giảm DTS liên
quan với giảm khả năng di động của lồng ngực và lực cơ hô hấp cũng như khả năng
thông hành của phế quản và độ đàn hồi của phổi. Hậu quả của những biến đổi này sẽ
gây nên giảm thông khí tối đa và dự trữ thông khí phổi, cho nên lúc về già dễ xuất
hiện khó thở khi hoạt động căng thẳng (gắng sức); sự suy giảm thông khí phổi sẽ đưa
đến tích góp nhiều bụi phổi, khó khăn hơn khi muốn khạc nhổ, không tạo đủ áp lực để
đưa dị vật ra khỏi phế quản. Tăng nguy cơ bị các bệnh viêm nhiễm phế quản và phổi,
cung cấp ôxy cho cơ thể bị giảm. Đồng thời cũng giảm độ bão hòa ôxy máu động
mạch. Hơn nữa về già có các cơ chế bù làm tăng chức năng hệ hô hấp, thí dụ thở
nhanh làm tăng thông khí phổi. Trong điều kiện nghỉ ngơi những cơ chế này đảm bảo
trao đổi khí bình thường giữa phổi và môi trường ngoài. Tuy nhiên khả năng thích
nghi và dự trữ của chúng lúc tuổi cao bị hạn chế.
Thủ phạm gây bệnh
Có loại không do vi khuẩn và có loại do vi khuẩn.
- Bệnh phổi không do vi khuẩn: có thể gặp tuy không nhiều viêm phổi và viêm
phế quản phổi do Ricketsia, bệnh virut do chim, bệnh phổi do Adenovirus, do các bệnh
virut phát ban và nhất là bệnh phổi do mycoplasma pneumoniae. Nguy hiểm hơn cả là
bệnh phổi do cúm.
- Bệnh phổi do vi khuẩn: tuy vẫn còn các bệnh phổi do phế cầu nhưng hiện nay
cần chú ý hơn đến tụ cầu và liên cầu. Ngoài ra còn có các vi khuẩn gram (-) E.coli...
Trên những bệnh nhân dùng kháng sinh và corticoid dài ngày có thể gặp nấm phổi.
Xử trí như thế nào?
Tùy nguyên nhân và tình trạng bệnh. Thể nhẹ có thể chữa trị, theo dõi tại nhà.
Các thể nặng phải được điều trị theo dõi tại viện.
- Điều trị nguyên nhân: nguyên nhân thường do các vi khuẩn cư trú ở răng
miệng, họng mũi, loại phế cầu khuẩn, hemophilus influenzae... Nguyên tắc là dùng
kháng sinh sớm, phổ rộng.
- Điều trị triệu chứng: Dùng các thuốc giảm ho nếu người bệnh ho nhiều, chú ý
dùng loại không chứa opium, không có tác dụng kháng histamin có thể gây ngủ, giảm
phản xạ ho khạc như catabex, mucitux, silomat... dùng aspirin (pH8), aspegic nếu sốt;
khó thở dùng các thuốc chống khó thở và trợ tim mạch.
Chăm sóc người bệnh rất quan trọng: Cho uống nhiều nước giúp loãng đờm dễ
khạc và hạ sốt (dung dịch oresol, nước hoa quả, nước rau...); truyền dịch nếu cần; giữ
ấm cho bệnh nhân, nơi nằm của bệnh nhân cần thoáng, ấm, khô ráo, không có gió lùa
và yên tĩnh; cần có chế độ nuôi dưỡng thích hợp tùy từng giai đoạn bệnh (giai đoạn
đầu ăn lỏng hoặc nửa lỏng, sau đó ăn đặc dần).
Phòng bệnh
Như trên đã nói, viêm phổi người già hay gặp ở người có thể trạng kém, mắc
bệnh mạn tính sau cúm... do vậy phải tích cực điều trị bệnh mạn tính, bệnh viêm mũi
họng, răng miệng. Nếu có điều kiện nên tiêm phòng vaccin chống phế cầu, vaccin đa
giá chống cúm. Người bệnh phải tuyệt đối bỏ thuốc lá, thuốc lào, không uống rượu,
bia quá mức, giữ gìn sức khỏe tránh để lạnh.
Những biểu hiện viêm phổi ở người cao tuổi :
Viêm phổi ở người cao tuổi có đặc điểm lâm sàng là âm thầm không rầm rộ,
không điển hình, không rõ ràng. Người bệnh không sốt cao, ít khi rét run, ho ít, nhẹ,
khạc đờm không nhiều, thường cũng chỉ như mọi ngày hoặc tăng hơn chút ít nên ít chú
ý, người trong gia đình cũng ít quan tâm. Thở có thể nhanh, thở gấp hơn bình thường.
Dấu hiệu khó thở thường nổi trội hơn trong viêm phổi; nghe phổi có nhiều ran ẩm rải
rác khắp hai phổi, không có biểu hiện của hội chứng đông đặc tập trung ở một thùy
phổi. Các tiếng thở bất thường có thể tập trung nhiều hơn ở các thùy dưới của phổi;
chụp Xquang phổi có thể thấy nhiều hình ảnh mờ rải rác hoặc tập trung hơn ở vùng
đáy phổi nhưng không có hình tam giác thường thấy trong viêm phổi do phế cầu ở lứa
tuổi thanh niên và trung niên; xét nghiệm máu thấy số lượng bạch cầu tăng không
nhiều, hồng cầu có thể hơi tăng... Các dấu hiệu cần chú ý khác là tình trạng tinh thần
có thể suy giảm một cách bất thường nhất là ở những người cao tuổi, có thể lú lẫn, rối
loạn tâm thần, rối loạn tiêu hóa, bỏ ăn.
...