![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Người Việt Nam cần có tư duy sáng tạo (2)
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 106.06 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
II. Năng lực tư duy sáng tạo của con người Việt Nam Khi nói về con người Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã có nhiều công trình nghiên cứu các phẩm chất đạo đức như tinh thần yêu nước, đoàn kết, tính lạc quan yêu đời, tình nghĩa trong ứng xử… nhưng về các phẩm chất trí tuệ, nhất là phẩm chất sáng tạo, năng lực tư duy sáng tạo và những đòi hỏi gay gắt trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì quả là còn ít công trình nghiên cứu....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Người Việt Nam cần có tư duy sáng tạo (2) Người Việt Nam cần có tư duy sáng tạo (2) II. Năng lực tư duy sáng tạo của con người Việt Nam Khi nói về con người Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã có nhiều công trình nghiên cứu các phẩm chất đạo đức như tinh thần yêu nước, đoàn kết, tính lạc quan yêu đời, tình nghĩa trong ứng xử… nhưng về các phẩm chất trí tuệ, nhất là phẩm chất sáng tạo, năng lực tư duy sáng tạo và những đòi hỏi gay gắt trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì quả là còn ít công trình nghiên cứu. GS.Trần Văn Giàu, trong một công trình về giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam có một chương nói về sự sáng tạo của người Việt Nam trong lịch sử, dưới góc nhìn lịch sử (Xem: Trần Văn Giàu tuyển tập, Nxb. Giáo dục, tr. 398- 414.). Ở đây, chúng ta cần đặt ra để nghiên cứu vấn đề đó cả ở tầm lý luận cơ bản và tầm ứng dụng. Trong thời kỳ xây dựng, đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay đòi hỏi rất cao năng lực sáng tạo của con người Việt Nam hơn bất kỳ thời kỳ nào khác. Nhưng con người Việt Nam có tiềm năng sáng tạo hay không, mức độ sáng tạo ở mức nào? Làm sao để phát huy được tiềm năng sáng tạo đó? Đây là một hướng nghiên cứu sâu mà ở đây chỉ xin nêu ra như sự gợi ý bước đầu. Khi nói về tiềm năng sáng tạo ta thường thấy các cấp độ hay mức độ như tiềm năng sáng tạo trong hành động thực tiễn (trong sản xuất và chiến đấu); tiềm năng sáng tạo trong tư duy (hoặc tiềm năng sáng tạo trong khoa học, nghệ thuật); cải tiến, phát hiện, phát minh trong công nghệ… Năng lực sáng tạo là năng lực tạo ra cái mới về chất hợp quy luật. Những tiêu chí của trí sáng tạo, nhân cách sáng tạo là năng lực thích ứng, linh hoạt cao; tính độc lập hơn trong đánh giá, chống lại mọi sự áp đặt, gò ép; ý thức tự chủ và quyết đoán cao hơn… Còn trí thông minh chỉ là nhớ nhiều, tổng hợp giỏi, hệ thống khéo, xử lý linh hoạt. Thông minh là một cơ sở của trí sáng tạo nhưng thông minh chưa hẳn là sáng tạo. Chỉ có trí sáng tạo và nhờ vào hoạt động sáng tạo thật sự thì con người và xã hội mới phát triển cao hơn về chất. Bởi vì, thông minh chỉ là lặp lại một cách linh hoạt còn sáng tạo là đóng góp mới về chất, cao hơn trong quá trình sản xuất vật chất và tinh thần. Thông minh chưa hẳn trở thành nhân tài nhưng có năng lực sáng tạo thì đó là hạt nhân của nhân tài. Trong khi đó người ta lại đề cao sự thông minh nhưng ít đề cao sự sáng tạo. Hoặc nói về con người với tư cách là chủ thể sáng tạo (nghĩa là làm ra) nhưng ít nghiên cứu sâu năng lực sáng tạo (đổi mới, sáng chế, phát minh, phát kiến…) của con người nhất là về mặt khoa học thực nghiệm, khoa học cụ thể. Một dân tộc hay một con người có nhiều sáng kiến, nhiều phát minh sáng chế, đạt được nhiều thành tựu to lớn, thúc đẩy cao sự phát triển về kinh tế, văn hóa xã hội là biểu hiện của năng lực, tiềm năng của trí sáng tạo được phát huy. Vậy người Việt Nam ta quả là người có chỉ số thông minh cao, có trí nhớ và tính tổng hợp văn hóa khá cao. Đã có khá nhiều nhận định không sai là dân tộc Việt Nam ta có nhiều nhân tài, “có trí thông minh không hề thua kém” bất kỳ một dân tộc nào khác, hoặc “năng lực tư duy không kém ai”. Nhưng mức độ sáng tạo thì chưa được đánh giá rõ ràng, tuy vậy không thể phủ nhận con người Việt Nam không có năng lực sáng tạo. Công việc đấu tranh và xây dựng nhiều thiên niên kỷ với những chiến công lẫy lừng và việc tạo dựng một nền văn minh trống đồng, nền văn hóa Lạc Việt nổi tiếng với việc tiếp biến các giá trị văn hóa ngoại lai với các giá trị văn hóa bản địa chứng tỏ điều đó. Dân tộc ta cũng là người có năng lực sáng tạo cao nhưng phát triển không đều. Trong chiến đấu đánh giặc và trong y học thì trí sáng tạo biểu hiện rất cao cả trong hành động và trong tư tưởng có tính lý luận. Hoặc trong nghệ thuật dân gian những sáng tạo của nhân dân ta cũng khá độc đáo thể hiện qua hệ thống các chuyện dân gian, các văn hóa vật thể. Nhưng trong sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế, trong khoa học kỹ thuật, trong lĩnh vực xây dựng lý thuyết riêng thì còn nhiều hạn chế, ít có công trình lớn nổi bật. Thực tế không bác bỏ được rằng dân tộc ta thông minh và sáng tạo trong đáng giặc, cứu nước, nhưng trong xây dựng, trong sản xuất, trong khoa học kỹ thuật ít có những phát minh sáng chế, ít có sáng tạo về kỹ thuật công nghệ và trong sản xuất kinh doanh, ít có các lý thuyết khoa học. Hoặc trong ứng xử, trong hoạt động thực tế thì có những cải tiến, có tính sáng tạo, có những nhà cách tân (như Nguyễn Công Trứ, Hồ Quý Ly, Nguyễn Trường Tộ…) nhưng lại ít có những nhà lý luận, những nhà khoa học tầm cỡ có trí sáng tạo cao. Những trường hợp như Lương Thế Vinh, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh… là không nhiều. Phải chăng do hoàn cảnh hay do tư chất? Có thể một dân tộc có tiềm năng sáng tạo nhưng hoàn cảnh lịch sử đã hạn chế nhiều khả năng phát huy, nhưng cũng có thể bản thân con người của dân tộc đó có ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Người Việt Nam cần có tư duy sáng tạo (2) Người Việt Nam cần có tư duy sáng tạo (2) II. Năng lực tư duy sáng tạo của con người Việt Nam Khi nói về con người Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã có nhiều công trình nghiên cứu các phẩm chất đạo đức như tinh thần yêu nước, đoàn kết, tính lạc quan yêu đời, tình nghĩa trong ứng xử… nhưng về các phẩm chất trí tuệ, nhất là phẩm chất sáng tạo, năng lực tư duy sáng tạo và những đòi hỏi gay gắt trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì quả là còn ít công trình nghiên cứu. GS.Trần Văn Giàu, trong một công trình về giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam có một chương nói về sự sáng tạo của người Việt Nam trong lịch sử, dưới góc nhìn lịch sử (Xem: Trần Văn Giàu tuyển tập, Nxb. Giáo dục, tr. 398- 414.). Ở đây, chúng ta cần đặt ra để nghiên cứu vấn đề đó cả ở tầm lý luận cơ bản và tầm ứng dụng. Trong thời kỳ xây dựng, đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay đòi hỏi rất cao năng lực sáng tạo của con người Việt Nam hơn bất kỳ thời kỳ nào khác. Nhưng con người Việt Nam có tiềm năng sáng tạo hay không, mức độ sáng tạo ở mức nào? Làm sao để phát huy được tiềm năng sáng tạo đó? Đây là một hướng nghiên cứu sâu mà ở đây chỉ xin nêu ra như sự gợi ý bước đầu. Khi nói về tiềm năng sáng tạo ta thường thấy các cấp độ hay mức độ như tiềm năng sáng tạo trong hành động thực tiễn (trong sản xuất và chiến đấu); tiềm năng sáng tạo trong tư duy (hoặc tiềm năng sáng tạo trong khoa học, nghệ thuật); cải tiến, phát hiện, phát minh trong công nghệ… Năng lực sáng tạo là năng lực tạo ra cái mới về chất hợp quy luật. Những tiêu chí của trí sáng tạo, nhân cách sáng tạo là năng lực thích ứng, linh hoạt cao; tính độc lập hơn trong đánh giá, chống lại mọi sự áp đặt, gò ép; ý thức tự chủ và quyết đoán cao hơn… Còn trí thông minh chỉ là nhớ nhiều, tổng hợp giỏi, hệ thống khéo, xử lý linh hoạt. Thông minh là một cơ sở của trí sáng tạo nhưng thông minh chưa hẳn là sáng tạo. Chỉ có trí sáng tạo và nhờ vào hoạt động sáng tạo thật sự thì con người và xã hội mới phát triển cao hơn về chất. Bởi vì, thông minh chỉ là lặp lại một cách linh hoạt còn sáng tạo là đóng góp mới về chất, cao hơn trong quá trình sản xuất vật chất và tinh thần. Thông minh chưa hẳn trở thành nhân tài nhưng có năng lực sáng tạo thì đó là hạt nhân của nhân tài. Trong khi đó người ta lại đề cao sự thông minh nhưng ít đề cao sự sáng tạo. Hoặc nói về con người với tư cách là chủ thể sáng tạo (nghĩa là làm ra) nhưng ít nghiên cứu sâu năng lực sáng tạo (đổi mới, sáng chế, phát minh, phát kiến…) của con người nhất là về mặt khoa học thực nghiệm, khoa học cụ thể. Một dân tộc hay một con người có nhiều sáng kiến, nhiều phát minh sáng chế, đạt được nhiều thành tựu to lớn, thúc đẩy cao sự phát triển về kinh tế, văn hóa xã hội là biểu hiện của năng lực, tiềm năng của trí sáng tạo được phát huy. Vậy người Việt Nam ta quả là người có chỉ số thông minh cao, có trí nhớ và tính tổng hợp văn hóa khá cao. Đã có khá nhiều nhận định không sai là dân tộc Việt Nam ta có nhiều nhân tài, “có trí thông minh không hề thua kém” bất kỳ một dân tộc nào khác, hoặc “năng lực tư duy không kém ai”. Nhưng mức độ sáng tạo thì chưa được đánh giá rõ ràng, tuy vậy không thể phủ nhận con người Việt Nam không có năng lực sáng tạo. Công việc đấu tranh và xây dựng nhiều thiên niên kỷ với những chiến công lẫy lừng và việc tạo dựng một nền văn minh trống đồng, nền văn hóa Lạc Việt nổi tiếng với việc tiếp biến các giá trị văn hóa ngoại lai với các giá trị văn hóa bản địa chứng tỏ điều đó. Dân tộc ta cũng là người có năng lực sáng tạo cao nhưng phát triển không đều. Trong chiến đấu đánh giặc và trong y học thì trí sáng tạo biểu hiện rất cao cả trong hành động và trong tư tưởng có tính lý luận. Hoặc trong nghệ thuật dân gian những sáng tạo của nhân dân ta cũng khá độc đáo thể hiện qua hệ thống các chuyện dân gian, các văn hóa vật thể. Nhưng trong sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế, trong khoa học kỹ thuật, trong lĩnh vực xây dựng lý thuyết riêng thì còn nhiều hạn chế, ít có công trình lớn nổi bật. Thực tế không bác bỏ được rằng dân tộc ta thông minh và sáng tạo trong đáng giặc, cứu nước, nhưng trong xây dựng, trong sản xuất, trong khoa học kỹ thuật ít có những phát minh sáng chế, ít có sáng tạo về kỹ thuật công nghệ và trong sản xuất kinh doanh, ít có các lý thuyết khoa học. Hoặc trong ứng xử, trong hoạt động thực tế thì có những cải tiến, có tính sáng tạo, có những nhà cách tân (như Nguyễn Công Trứ, Hồ Quý Ly, Nguyễn Trường Tộ…) nhưng lại ít có những nhà lý luận, những nhà khoa học tầm cỡ có trí sáng tạo cao. Những trường hợp như Lương Thế Vinh, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh… là không nhiều. Phải chăng do hoàn cảnh hay do tư chất? Có thể một dân tộc có tiềm năng sáng tạo nhưng hoàn cảnh lịch sử đã hạn chế nhiều khả năng phát huy, nhưng cũng có thể bản thân con người của dân tộc đó có ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tư duy tích cực tư duy sáng tạo hiệu quả tư duy tư duy có phản biện bản đồ tư duyTài liệu liên quan:
-
Tiểu luận: Tư duy phản biện và tư duy sáng tạo
46 trang 257 0 0 -
9 trang 211 0 0
-
Phương pháp học tập mới và hiệu quả cho lối tư duy của học sinh
5 trang 181 0 0 -
40 nguyên tắc thủ thuật sáng tạo cơ bản (nguyên tắc 31 - 40)
5 trang 105 0 0 -
64 trang 104 0 0
-
5 trang 80 0 0
-
10 trang 80 0 0
-
262 trang 59 0 0
-
3 trang 56 0 0
-
7 trang 56 0 0