Danh mục

Người Việt Nam cần có tư duy sáng tạo (3)

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 126.54 KB      Lượt xem: 21      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (11 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Sáng tạo, như đã nói tới, là đặc trưng bản chất quan trọng nhất của con người khác với con vật. Chính phương thức hoạt động thực tiễn và khả năng có trí tuệ làm cho con người có năng lực sáng tạo. Toàn bộ lịch sử xã hội là bằng chứng của tư duy sáng tạo của con người, chống lại sự bảo thủ trì trệ, giáo điều, rập khuôn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Người Việt Nam cần có tư duy sáng tạo (3) Người Việt Nam cần có tư duy sáng tạo (3) III. Yêu cầu đòi hỏi phát triển con người có tư duy sáng tạo trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước thực hiện nền kinh tế tri thức 1. Tư duy sáng tạo là hạt nhân của nhân tài Sáng tạo, như đã nói tới, là đặc trưng bản chất quan trọng nhất của con người khác với con vật. Chính phương thức hoạt động thực tiễn và khả năng có trí tuệ làm cho con người có năng lực sáng tạo. Toàn bộ lịch sử xã hội là bằng chứng của tư duy sáng tạo của con người, chống lại sự bảo thủ trì trệ, giáo điều, rập khuôn. Trong đó các nhân tài, mà điểm nổi bật là năng lực sáng tạo, vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là người sáng tạo lịch sử ở các bước ngoặt trên nền tảng hoạt động tích cực của đại đa số nhân dân. Nhưng ở những người khác nhau cũng có năng lực sáng tạo khác nhau không chỉ do khí chất tâm lý, tri thức, kinh nghiệm, vốn sống, cảm xúc mà còn do tác động của môi trường xã hội, do trình độ và bản chất các nền kinh tế, văn hóa truyền thống trong lịch sử dân tộc và nhân loại. Mỗi dân tộc do vậy cũng có những khả năng và mức độ sáng tạo khác nhau cao thấp hoặc loại hình thiên về lý thuyết hay thực hành, khoa học hay nghệ thuật, công nghệ hay lý luận, khoa học tự nhiên hay xã hội… Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi thời đại cũng đòi hỏi nhưng khả năng sáng tạo khác nhau và con người cũng có những đáp ứng khác nhau. Nền kinh tế nông nghiệp ít đòi hỏi năng lực sáng tạo hơn nền kinh tế công nghiệp và thị trường, nền kinh tế tri thức lại có những đòi hỏi sáng tạo cao hơn nữa. Trong thời bình và đời thường thì có khi sự đòi hỏi năng lực sáng tạo không cao bằng trong chiến tranh mất còn, tức là nói chung các tình huống khắc nghiệt, kể cả trong thời xây dựng thường đòi hỏi cao năng lực sáng tạo của con người và của cả một dân tộc. Cái khó có bó cái khôn, cái mới nhưng cũng chính trong cái khó mà ló cái khôn, cái mới là thế. 2. Nhu cầu của quá trình hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức Nhưng nền kinh tế trước kia nhu cầu sáng tạo không cao. Sang nền kinh tế hiện đại, tri thức hóa thì có nhiều nhu cầu sáng tạo. Sáng tạo là linh hồn của nền kinh tế hiện đại tri thức hóa và là linh hồn của một dân tộc hiện đại có khả năng tự phát triển cao. Vì nền kinh tế tri thức là nền kinh tế luôn sản xuất ra cái mới, cái chưa biết. Đó là nền kinh tế của trí tuệ không chỉ đòi hỏi sự thông minh và hiểu biết mà quan trọng hơn là sự phát minh, sáng tạo. Sự thông minh, hiểu biết nhiều, nhanh nhạy linh hoạt trong ứng xử, đối phó là một cơ sở của sự sáng tạo chứ không phải là sự sáng tạo, tức làm sản sinh ra cái mới, thoát khỏi cái cũ và có khả năng thúc đẩy xã hội và con người tiến lên phi thường. 3. Những loại hình tư duy sáng tạo trong nền kinh tế tri thức Nền kinh tế tri thức cần nhiều loại hình tư duy sáng tạo. Trực tiếp là sáng tạo tri thức, công nghệ của những nhà khoa học và công nghệ; tư duy sáng tạo của các nhà kinh tế kinh doanh, các nhà hoạt động văn hóa xã hội; tư duy sáng tạo nghệ thuật; nhưng có loại hình sáng tạo bao trùm là tư duy sáng tạo của các nhà lãnh đạo, quản lý. Nhưng dù loại hình nào thì cũng có bốn phương diện như: nhân cách sáng tạo, quá trình, phương thức sáng tạo và sản phẩm sáng tạo. Trong nhân cách sáng tạo thì có ý chí sáng tạo, động cơ sáng tạo, trí tuệ sáng tạo, năng lực tư duy sáng tạo. Cố nhiên, những khía cạnh đó không tách rời nhau mà tạo thành các phẩm chất sáng tạo. Điều đáng chú ý nhất trong đó là năng lực sáng tạo. 4. Sáng tạo và động lực của sáng tạo Sáng tạo nghĩa là tìm tòi cái mới, có ích. Nhưng hành vi đó chỉ trở thành hiện thực khi xã hội và cá nhân có nhu cầu và lợi ích phải sáng tạo và được tôn trọng chính cái sáng tạo đó. Tức là sáng tạo chỉ được diễn ra dưới sự tác động của động lực sáng tạo. Theo GS. TS. Ngô Duy Tùng thì có các động lực như: - Động lực sinh động là động lực bản năng trong tư duy con người. Một người mà óc chưa bị lão hoá là có nhu cầu và khả năng sáng tạo. - Động lực kích thích do các nhu cầu về vật chất hay tinh thần kích thích tạo ra nguồn động lực sáng tạo. - Động lực môi trường có không khí dân chủ, thoải mái tôn trọng sáng tạo thì khả năng sáng tạo được mở rộng. - Động lực so sánh như có sự khác biệt, tạo sự cạnh tranh tìm cách giải quyết khác nhau. - Động lực kỳ vọng tức là ham muốn sáng tạo tìm tòi cái mới. - Động lực vươn lên, muốn tiến bộ đã tạo ra khả năng sáng tạo để thành công (Kinh tế tri thức, xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 308- 309). Vậy làm thế nào để tạo ra động lực của sự sáng tạo? Cần có cả môi trường thể chế và tâm lý xã hội, cả phương pháp và tư chất của nhân cách sáng tạo với niềm đam mê sáng tạo cao. 5. Phương pháp sáng tạo Sáng tạo có nhiều mức độ từ thấp lên cao và cũng có nhiều phương pháp tương ứng (Kinh tế tri thức, xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI. Nxb. Chính trị quố ...

Tài liệu được xem nhiều: