Danh mục

Nguyên Lý Khí Công Đạo Gia: Công Pháp Thai Túc

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 181.08 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Từ “khí công” mà chúng ta dùng ngày nay là danh từ mới xuất hiện từ những năm 60 thế kỷ trước. Có thể nói, nhờ Đạo giáo mà khí công Trung Hoa phát triển rực rỡ, vang danh khắp nơi như ngày nay. Khí công Đạo giáo có nhiều lưu phái nổi tiếng như Võ Đang khí công, Lao Sơn khí công…Các nhà khí công nổi tiếng Trung Quốc hiện nay như Nghiêm Tân, Chu Hạc Đình đều là cao đồ của những lưu phái khí công Đạo giáo này.Thuật thai tức và trường thọThai tức là môn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguyên Lý Khí Công Đạo Gia: Công Pháp Thai Túc Nguyên Lý Khí Công Đạo Gia: Công Pháp Thai Túc Từ “khí công” mà chúng ta dùng ngày nay là danh từ mới xuất hiệntừ những năm 60 thế kỷ trước. Có thể nói, nhờ Đạo giáo mà khí côngTrung Hoa phát triển rực rỡ, vang danh khắp nơi như ngày nay. Khí côngĐạo giáo có nhiều lưu phái nổi tiếng như Võ Đang khí công, Lao Sơn khícông… Các nhà khí công nổi tiếng Trung Quốc hiện nay như Nghiêm Tân,Chu Hạc Đình đều là cao đồ của những lưu phái khí công Đạo giáo này. Thuật thai tức và trường thọ Thai tức là môn nội khí khí công đời đời truyền thừa trong Đạogiáo, có thể gọi là môn khí công cao cấp. Khởi thủy, thai tức là một môntrong thuật phục khí, về sau dần dần phát triển thành một hệ thống côngpháp độc đáo, có trước tác kinh điển thai tức riêng. Nguyên khí là gì? Thai tức, nói nôm na là “thở” ở trạng thái bào thai. Muốn hiểu thaitức, phục khí, phải hiểu về “nguyên khí”. Theo đạo gia, nguyên khí làchân khí tiên thiên mà con người bẩm thụ trước khi ra đời. Giai đoạnhoàn hảo nhất, sung mãn nhất của nguyên khí con người là khi còn ởtrạng thái thai nhi, cơ thể chưa bị hao tổn do khí hô hấp từ mũi, miệng.Thai nhi nằm trong lòng mẹ không ăn không uống, không hít không thở,chỉ thông qua cuống nhau mà sống, đó là nhờ nguyên khí vậy. Sau khi rađời, nguyên khí thoát ra từ miệng mũi, khí hậu thiên kéo khí tiên thiên đi.Người luyện khí là phải giữ lại, hồi phục nguy ên khí để luyện thành đạotrường sinh bất lão. Nguyên khí hay chân khí là khí vô hình, là khí được tồn dưỡng bêntrong cơ thể, còn không khí chúng ta hít thở thông thường là khí hữu hình.Khí hữu hình qua sự chuyển hóa trong cơ thể có thể biến thành khí vôhình, ngoài ra thông qua tập luyện cũng có thể thúc đẩy khí vô hình sinhra. Công năng miễn dịch, tự trị bệnh của cơ thể là nhờ ở khí vô hình, tứcnguyên khí. Sự hao tổn năng lượng trong cuộc sống hằng ngày cũngkhông phải từ khí hữu hình mà là khí vô hình. Khi khí hữu hình đượcsung túc thì cơ thể sẽ xảy ra hiện tượng “biến đổi về chất” (chất biến),hình thành quá trình “khí nhiều thì sinh tân dịch, tân dịch nhiều lại sinhkhí”, khí huyết thịnh vượng thì khỏe mạnh, trường thọ. Trong cơ thể, gốc của nguyên khí nằm ở huyệt Mệnh môn, tứcxương cùng, giữa hai thận. Đây là vị trí quan trọng của sinh mệnh và côngnăng sinh dục, vì thế các nhà dưỡng sinh, thầy thuốc luôn coi Mệnh mônlà nơi “tàng tinh tụ khí”. Đan điền, tức Khí hải (bụng dưới) là nơi hànhkhí. Đạo gia cho rằng thường xuyên chà xát, làm nóng hai vị trí này cóthể bồi bổ nguyên khí, khỏe mạnh, trường thọ. Trong “Hậu Hán thư - Vương Chân truyện” chép rằng: Đời Hán VũĐế có Vương Chân, tự là Thúc Kinh, người Thượng Đảng, luyện thuật bếkhí mà nuốt, gọi là thai tức; luyện cuốn lưỡi lên vòm họng cho ra tân dịchmà nuốt, gọi là thai thực. Vương Chân chuyên cần luyện, có thể nhịn ăn hơn 200 ngày, gươngmặt bóng mịn như trẻ con, thân thể tráng kiện, sức mạnh hơn chụcngười”. Có thể thấy thai tức xuất hiện từ thời xa xưa, thông qua rèn luyệnthai tức có thể trở về trạng thái thai nhi trong b ào thai, không ăn ngũ cốc,da dẻ sáng đẹp, khỏe mạnh, từ đó mà được trường thọ. “Hứa Tinh Dươngtrong “Túy tâm tiên ca” viết rằng “Chân khí vận hành bên trong, tự nhiênphản lão hoàn đồng”. Vào đời Đông Tấn, cách nay khoảng 1600 năm, đạo sĩ CátHồng(283-363) trước tác “Bão Phác Tử”-một bộ kinh điển của Đạo giáo,trong đó ghi lại nhiều phương pháp hành khí, có một phần hướng dẫnluyện thai tức như sau: “Người mới luyện thuật này, đầu tiên dùng mũi hítsâu vào rồi bế lại không thở ra, lòng đếm thầm từ 1 đến 120 rồi mới dùngmiệng thở ra từ từ, sau đó lại hít vào…Hô hấp phải thật sâu, êm, không đểtai nghe tiếng, hít vào nhiều, thở ra ít. Dùng lông hồng (lông mao cựcnhẹ) đặt trên mũi miệng, đến mức hít thở mà lông không động là đạt”. Phép thai tức mà Cát Hồng nói có thể là vì ông lĩnh hội được từ đặctính trường thọ của loài rùa và hạc, thấy rằng hô hấp chậm-êm-sâu-dài làđiều kiện cơ bản của trường thọ. Vì thế Cát Hồng nói: “Biết được sựtrường thọ của rùa, hạc, nên học phép đạo dẫn của chúng để kéo dài thêmtuổi”. Theo Cát Hồng, thai tức cũng như quy tức (thở như rùa), là một loạitiềm hô hấp thâm tầng, đạt được sau khi nhập tĩnh. Thai tức hoàn toàn khác với bế khí. Thông thường, bế khí là bất ngờcắt đứt sự hô hấp đang bình thường, làm thiếu dưỡng khí; thai tức hay quytức là thông qua tập luyện dần dần giảm thiểu nhu cầu về dưỡng khí. Yhọc hiện đại nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ sử dụng lượng túi phổi của cơ thểrất thấp, khi hô hấp bình thường thì có rất nhiều túi phổi không làm việc. Qua rèn luyện thai tức, khí công có thể giúp cơ thể sử dụng tối đacông năng của túi phổi. Tiến thêm một bước nữa, ý nghĩa chân chính củathai tức là không còn dùng mũi miệng để hô hấp nữa, mà chân khí vậnhành bên trong, trao đổi chất qua da, chân lông, hô hấp ...

Tài liệu được xem nhiều: