Thông tin tài liệu:
Nếu bạn quan hệ tình dục không được bảo vệ hoặc dùng chung kim tiêm với người khác, bạn nên đi xét nghiệm HIV. Phát hiện và điều trị sớm sẽ làm quá trình phát triển của HIV chậm đi.Nếu bạn đang mang thai, điều trị sớm sẽ giúp giảm nguy cơ mắcbệnh cho con bạn. Bạn cũng tránh lây nhiễm cho người khác nếu như bạn biết mình đãbị bệnh. Xét nghiệm có thể làm bí mật và tin cậy. Thậm chí bạn có thể xét nghiệm tại nhà. Những người bị nhiễm HIV hoặc bị AIDS nên...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NGUYÊN NHÂN HIV/AIDS (Kỳ 2) HIV/AIDS (Kỳ 2) KHI NÀO CẦN ĐẾN GẶP BÁC SĨ Nếu bạn quan hệ tình dục không được bảo vệ hoặc dùng chung kim tiêmvới người khác, bạn nên đi xét nghiệm HIV. Phát hiện và điều trị sớm sẽ làm quátrình phát triển của HIV chậm đi. Nếu bạn đang mang thai, điề u trị sớm sẽ giúp giảm nguy cơ mắc bệnh cho con bạn. Bạn cũng tránh lây nhiễm cho người khác nếu như bạn biết mình đã bị bệnh. Xét nghiệm có thể làm bí mật và tin cậy. Thậm chí bạn có thể xét nghiệmtại nhà. Những người bị nhiễm HIV hoặc bị AIDS nên đến bệnh viện bất cứ lúc nàobị sốt cao, thở ngắn, ho ra máu, tiêu chảy nặng, nặng ngực hoặc đau bụng, mệtmỏi, nhức đầu, tai biến, rối loạn hoặc thay đổi tâm thần. Những biểu hiện tr ên cóthể là những dấu hiệu của tình trạng đe dọa mạng sống đòi hỏi phải được đánh giákhẩn cấp tại phòng cấp cứu của bệnh viện. LÂM SÀNG & CẬN LÂM SÀNG Chẩn đoán HIV được thiết lập khi tìm thấy sự hiện diện của các loại proteinchiến đấu chống lại bệnh tật, được gọi là kháng thể có trong máu. Những khángthể HIV này thường không được tìm thấy cho đến 1-3 tháng sau khi nhiễm bệnh.Nếu bạn tiếp xúc với HIV, nên xét nghiệm sớm vì điều trị sớm sẽ cải thiện tiênlượng của bạn. Ngoài ra, bạn có thể tránh được những thói quen có nguy cơ caolây truyền virus cho người khác. Hiện có 2 loại xét nghiệm tìm kháng thể HIV là ELISA (enzyme-linkedimmunoassay) và Western blot. Xét nghiệm dùng để tầm soát là ELISA, vàWestern blot là xét nghiệm dùng để khẳng định lại. Cả 2 loại xét nghiệm trên đềucó thể cho kết quả âm tính trong vòng 3 tháng sau khi bị nhiễm. Trong trường hợpnày, nếu như sự nghi ngờ vẫn còn cao, bạn có thể sử dụng một xét nghiệm khác,chính xác hơn. Xét nghiệm này cho phép nhìn thấy được trực tiếp một phần củavirus HIV trong máu. ĐIỀU TRỊ Trong vòng 10 năm trở lại đây, bắt đầu tìm ra vài loại thuốc chống lại HIVvà cả những loại nhiễm trùng và ung thư liên quan. Chất ức chế men sao mã ngược: có tác dụng ngăn chặn virus sao chép chính nó. Nh ững loại thuốc trên là AZT (zidovudine [Retrovir]), ddC(zalcitabine [Hivid], dideoxyinosine), d4T (stavudine [Zerit]) và 3TC (lamivudine[Epivir]). Những loại thuốc này làm chậm lại quá trình phát tán của HIV trong cơthể và làm các nhiễm khuẩn cơ hội chậm khởi phát. Chất ức chế men sao mã ngược nonnucleoside (NNRTIS): dùng phối hợp với các loại thuốc khác để ngăn không cho virus nhân lên. Một số loại thuốcthuộc nhóm này là delavirdine (Rescriptor) và nevirapine (Viramune). Chất ức chế men protease: có tác dụng ức chế quá trình sao chép của virus ở giai đoạn cuối của vòng đời. Bao gồm ritonavir (Norvir), kết hợp giữalopinavir và ritonavir (Kaletra), saquinavir (Invirase), indinavir sulphate(Crixivan), amprenavir (Agenerase), và nelfinavir (Viracept). S ử dụng cả hainhóm thuốc làm giảm tính kháng thuốc của virus. Ức chế sự hòa màng: đây là nhóm thuốc điều trị HIV mới nhất. Thuốc đầu tiên thuộc nhóm này (enfuvirtide [Fuzeon]) gần đây mới được cho lưuhành tại Hoa Kỳ. Ức chế hòa màng ngăn không cho HIV xâm nhập vào tế bàomiễn dịch của cơ thể (HIV muốn tấn công 1 tế bào miễn dịch thì bước đầu tiên củanó là phải hòa màng của nó vào màng của tế bào đó rồi phóng thích nhân bêntrong bao gồm các loại men, ARN và protein của nó vào bên trong tế bào, mọingười muốn hiểu rõ hơn về vòng đời của HIV và cơ chế tác dụng của các loạithuốc trên đối với vòng đời của virus thì xem bài sau hen: Vòng đời virus HIV -LL) Những loại thuốc kháng retrovirus không trị khỏi HIV hay AIDS. Nó chỉ ngăn không cho virus nhân lên và làm chậm sự phát triển của AIDS. Tuynhiên những tác dụng phụ của chúng cũng có thể rất nặng nề. Bao gồm giảmlượng hồng cầu và bạch cầu trong cơ thể, viêm tụy, và tổn thương dây thần kinh.Những biến chứng khác có thể là gan to, gan nhiễm mỡ, có thể dẫn đến suy gan vàtử vong. Những triệu chứng phụ thường gặp của thuốc ức chế men protease bao gồm nôn ói, tiêu chảy và những triệu chứng dạ dày ruột khác. Những loạithuốc này còn có thể tương tác với những thuốc khác gây ra những tác dụng phụnghiêm trọng. Hiện nay, một liệu pháp kết hợp nhiều loại thuốc có t ên là liệu pháp kháng retrovirus siêu hoạt (highly active antiretroviral therapy - HAART) được sửdụng để điều trị HIV. Liệu pháp này không thể điều trị hết được bệnh. Virus vẫncòn tồn tại ở nhiều vùng trong cơ thể, chẳng hạn như hệ bạch huyết. Bệnh nhân HIV có nguy cơ bị nhiễm trùng cơ hội. Nhiều loại thuốc được dùng để điều trị những nhiễm trùng đó. Bao gồm foscarnet sodium(Foscavir) và ganciclovir (Cytovene, Vitrasert) dùng để điều trị nhiễm trùng mắt ...