Nhà đầu tư ra quyết định thông qua mô hình phát hiện hành vi quản trị lợi nhuận trong bối cảnh khởi nghiệp tại Việt Nam
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 499.18 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này nhằm tìm ra mô hình phù hợp với thị trường Việt Nam nhằm đánh giá hành vi quản trị lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với các công ty, nhà đầu tư, cơ quan quản lý trong việc đánh giá hành vi quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp và hàm ý cho các nhà khởi nghiệp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhà đầu tư ra quyết định thông qua mô hình phát hiện hành vi quản trị lợi nhuận trong bối cảnh khởi nghiệp tại Việt Nam NHÀ ĐẦU TƯ RA QUYẾT ĐỊNH THÔNG QUA MÔ HÌNH PHÁT HIỆN HÀNH VI QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN TRONG BỐI CẢNH KHỞI NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ThS.Phùng Anh Thư Khoa Tài Chính-Kế Toán, ĐH Nguyễn Tất Thành TP.HCM Tóm tắt Vấn đề khởi nghiệp đang được sự quan tâm từ các nhà đầu tư, quỹ đầu tư, trong đó, quản trị lợi nhuận hiệu quả là một vấn đề cấp thiết. Trên thực tế, các nhà khởi nghiệp cũng bối rối trong vấn đề uy tín của đối tác, khách hàng trên thị trường thường có xu hướng thao túng lợi nhuận đạt được trong quá trình kinh doanh. Nghiên cứu này nhằm tìm ra mô hình phù hợp với thị trường Việt Nam nhằm đánh giá hành vi quản trị lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với các công ty, nhà đầu tư, cơ quan quản lý trong việc đánh giá hành vi quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp và hàm ý cho các nhà khởi nghiệp. Từ khóa: hành vi quản trị lợi nhuận, đầu tư. Abstract Start-up is of interest from investors, investment funds, which earnings management behavior is the problem. In fact, these entrepreneurs also confused on the issue of the reputation partners and customers in the market tend to manipulate the profit reached in the business process. This study aims to find suitable models for Vietnam market to assess earnings management. The study results have implications for companies, investors, authorities in assessing the earnings management behavior and implications for start-up. Keywords: earnings management, investment. 1. GIỚI THIỆU Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề sở hữu và quản lý ngày trở nên tách biệt như chúng ta biết tới đó là lý thuyết đại diện. Sự tách biệt giữa sở hữu doanh nghiệp (DN) và quản lý DN, sẽ mang đến rất nhiều thuận lợi như việc chuyển nhượng quyền sở hữu không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của DN, khi thuê được những nhà quản lý chuyên nghiệp đảm bảo thực hiện mục tiêu của DN. Tuy nhiên việc tách biệt này lại dẫn tới một vấn đề nổi bật khác – vấn đề đại diện, hay còn gọi là vấn đề về xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và các chủ sở hữu. Các nhà đầu tư hay còn gọi là các chủ sở hữu rất muốn biết chính xác tiền của mình đã được sử dụng như thế nào và tình hình hoạt động thực tế của công ty. Vì vậy vấn đề minh bạch báo cáo tài chính (BCTC) và chất lượng công bố thông tin trên BCTC rất được xem trọng đối với các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Chất lượng thông tin trên BCTC của DN, đặc biệt là thông tin về lợi nhuận có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định nhiều bên liên quan. Trong bối cảnh đó, vấn đề quan tâm chính là chất lượng của thông tin lợi nhuận được công bố. Những hành vi quản trị lợi nhuận theo mục đích của nhà quản lý có thể làm cho BCTC không còn phản ánh được bản chất của tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của DN. Do đó, nhà đầu tư gần gần như bị động trước các thông tin do các công ty niêm yết cung cấp. Trước thực tế đó, các nhà nghiên cứu đã xem xét đưa ra các mô hình để nhận diện và đo lường hành vi quản trị lợi nhuận của nhà quản lý. Trên Thế giới đã có nhiều mô hình nổi tiếng trong nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận nhưng liệu các mô hình này có phù hợp khi áp dụng tại thị trường chứng khoán Việt Nam? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả đã thực hiện kiểm định mức độ phù hợp của bốn mô hình nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận phổ biến trên Thế giới gồm mô hình của Jones (1991), mô hình Modified Jones của Dechow, Sloan, Sweeney (1995), mô hình của Kothari, Leone and Wasley (2005) và mô hình Phạm Thị Bích Vân (2012). Qua đó, nhận diện mô hình thích hợp nhất để nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty tại Việt Nam, cũng như hàm ý cho các nhà khởi nghiệp muốn thu hút nguồn vốn đầu tư để thực hiện ý tưởng và phát triển doanh nghiệp. 2. HÀNH VI QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN 2.1 Khái niệm Quản trị lợi nhuận là hành vi của nhà quản lý sử dụng việc ghi nhận trên cơ sở dồn tích thông qua một số tài khoản để làm thay đổi lợi nhuận sau thuế theo các mục tiêu công bố thông tin của họ (Ronen và Yaari, 2008). Như vậy, quản trị lợi nhuận đã trình bày ở trên chúng ta có thể thấy được những đặc điểm chung trong các khái niệm về quản trị lợi nhuận như sau: - Là hành vi phụ thuộc vào quyết định có chủ ý của nhà quản lý. - Là sự can thiệp của nhà quản lý làm thay đổi các thông tin trên báo cáo tài chính. - Là sự công bố thông tin liên quan đến các thời điểm trình bày báo cáo. 2.2 Cơ sở lý thuyết Cơ sở của hành vi quản trị lợi nhuận chính là kế toán theo cơ sở dồn tích. Cơ sở kế toán dồn tích là một trong các nguyên tắc kế toán cơ bản nhất chi phối các phương pháp kế toán cụ thể trong kế toán DN. Theo đó, mọi giao dịch kinh tế liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu và chi phí được ghi nhận tại thời điểm phát sinh giao dịch, không quan tâm đến thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền (chuẩn mực kế toán số 01, 2002). Vì việc ghi nhận doanh thu và chi phí có ảnh hưởng quyết định đến báo cáo lợi nhuận của DN trong một kỳ, cơ sở kế toán dồn tích được xem là một nguyên tắc chính yếu đối với việc xác định lợi nhuận của DN. Lợi nhuận theo cơ sở dồn tích là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí; từ đó, BCTC nói chung và BCKQKD nói riêng phải được lập trên cơ sở dồn tích. Điều này mang lại cơ hội cho NQT thực hiện hành động quản trị lợi nhuận thông qua các giao dịch không bằng tiền nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Trong khi đó, kế toán theo cơ sở tiền được sử dụng để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ (theo phương pháp trực tiếp) dựa trên cơ sở thực thu, thực chi tiền nên NQT không thể điều chỉnh các giao dịch. Từ đó chênh lệch giữa lợi nhuận trên BCKQHĐKD và dòng tiền trên BCLCTT (theo phương pháp trực tiếp) tạo ra biến kế toán gọi là Accruals. Ta có công thức sau Biến ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhà đầu tư ra quyết định thông qua mô hình phát hiện hành vi quản trị lợi nhuận trong bối cảnh khởi nghiệp tại Việt Nam NHÀ ĐẦU TƯ RA QUYẾT ĐỊNH THÔNG QUA MÔ HÌNH PHÁT HIỆN HÀNH VI QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN TRONG BỐI CẢNH KHỞI NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ThS.Phùng Anh Thư Khoa Tài Chính-Kế Toán, ĐH Nguyễn Tất Thành TP.HCM Tóm tắt Vấn đề khởi nghiệp đang được sự quan tâm từ các nhà đầu tư, quỹ đầu tư, trong đó, quản trị lợi nhuận hiệu quả là một vấn đề cấp thiết. Trên thực tế, các nhà khởi nghiệp cũng bối rối trong vấn đề uy tín của đối tác, khách hàng trên thị trường thường có xu hướng thao túng lợi nhuận đạt được trong quá trình kinh doanh. Nghiên cứu này nhằm tìm ra mô hình phù hợp với thị trường Việt Nam nhằm đánh giá hành vi quản trị lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với các công ty, nhà đầu tư, cơ quan quản lý trong việc đánh giá hành vi quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp và hàm ý cho các nhà khởi nghiệp. Từ khóa: hành vi quản trị lợi nhuận, đầu tư. Abstract Start-up is of interest from investors, investment funds, which earnings management behavior is the problem. In fact, these entrepreneurs also confused on the issue of the reputation partners and customers in the market tend to manipulate the profit reached in the business process. This study aims to find suitable models for Vietnam market to assess earnings management. The study results have implications for companies, investors, authorities in assessing the earnings management behavior and implications for start-up. Keywords: earnings management, investment. 1. GIỚI THIỆU Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề sở hữu và quản lý ngày trở nên tách biệt như chúng ta biết tới đó là lý thuyết đại diện. Sự tách biệt giữa sở hữu doanh nghiệp (DN) và quản lý DN, sẽ mang đến rất nhiều thuận lợi như việc chuyển nhượng quyền sở hữu không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của DN, khi thuê được những nhà quản lý chuyên nghiệp đảm bảo thực hiện mục tiêu của DN. Tuy nhiên việc tách biệt này lại dẫn tới một vấn đề nổi bật khác – vấn đề đại diện, hay còn gọi là vấn đề về xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và các chủ sở hữu. Các nhà đầu tư hay còn gọi là các chủ sở hữu rất muốn biết chính xác tiền của mình đã được sử dụng như thế nào và tình hình hoạt động thực tế của công ty. Vì vậy vấn đề minh bạch báo cáo tài chính (BCTC) và chất lượng công bố thông tin trên BCTC rất được xem trọng đối với các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Chất lượng thông tin trên BCTC của DN, đặc biệt là thông tin về lợi nhuận có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định nhiều bên liên quan. Trong bối cảnh đó, vấn đề quan tâm chính là chất lượng của thông tin lợi nhuận được công bố. Những hành vi quản trị lợi nhuận theo mục đích của nhà quản lý có thể làm cho BCTC không còn phản ánh được bản chất của tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của DN. Do đó, nhà đầu tư gần gần như bị động trước các thông tin do các công ty niêm yết cung cấp. Trước thực tế đó, các nhà nghiên cứu đã xem xét đưa ra các mô hình để nhận diện và đo lường hành vi quản trị lợi nhuận của nhà quản lý. Trên Thế giới đã có nhiều mô hình nổi tiếng trong nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận nhưng liệu các mô hình này có phù hợp khi áp dụng tại thị trường chứng khoán Việt Nam? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả đã thực hiện kiểm định mức độ phù hợp của bốn mô hình nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận phổ biến trên Thế giới gồm mô hình của Jones (1991), mô hình Modified Jones của Dechow, Sloan, Sweeney (1995), mô hình của Kothari, Leone and Wasley (2005) và mô hình Phạm Thị Bích Vân (2012). Qua đó, nhận diện mô hình thích hợp nhất để nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty tại Việt Nam, cũng như hàm ý cho các nhà khởi nghiệp muốn thu hút nguồn vốn đầu tư để thực hiện ý tưởng và phát triển doanh nghiệp. 2. HÀNH VI QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN 2.1 Khái niệm Quản trị lợi nhuận là hành vi của nhà quản lý sử dụng việc ghi nhận trên cơ sở dồn tích thông qua một số tài khoản để làm thay đổi lợi nhuận sau thuế theo các mục tiêu công bố thông tin của họ (Ronen và Yaari, 2008). Như vậy, quản trị lợi nhuận đã trình bày ở trên chúng ta có thể thấy được những đặc điểm chung trong các khái niệm về quản trị lợi nhuận như sau: - Là hành vi phụ thuộc vào quyết định có chủ ý của nhà quản lý. - Là sự can thiệp của nhà quản lý làm thay đổi các thông tin trên báo cáo tài chính. - Là sự công bố thông tin liên quan đến các thời điểm trình bày báo cáo. 2.2 Cơ sở lý thuyết Cơ sở của hành vi quản trị lợi nhuận chính là kế toán theo cơ sở dồn tích. Cơ sở kế toán dồn tích là một trong các nguyên tắc kế toán cơ bản nhất chi phối các phương pháp kế toán cụ thể trong kế toán DN. Theo đó, mọi giao dịch kinh tế liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu và chi phí được ghi nhận tại thời điểm phát sinh giao dịch, không quan tâm đến thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền (chuẩn mực kế toán số 01, 2002). Vì việc ghi nhận doanh thu và chi phí có ảnh hưởng quyết định đến báo cáo lợi nhuận của DN trong một kỳ, cơ sở kế toán dồn tích được xem là một nguyên tắc chính yếu đối với việc xác định lợi nhuận của DN. Lợi nhuận theo cơ sở dồn tích là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí; từ đó, BCTC nói chung và BCKQKD nói riêng phải được lập trên cơ sở dồn tích. Điều này mang lại cơ hội cho NQT thực hiện hành động quản trị lợi nhuận thông qua các giao dịch không bằng tiền nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Trong khi đó, kế toán theo cơ sở tiền được sử dụng để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ (theo phương pháp trực tiếp) dựa trên cơ sở thực thu, thực chi tiền nên NQT không thể điều chỉnh các giao dịch. Từ đó chênh lệch giữa lợi nhuận trên BCKQHĐKD và dòng tiền trên BCLCTT (theo phương pháp trực tiếp) tạo ra biến kế toán gọi là Accruals. Ta có công thức sau Biến ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hành vi quản trị lợi nhuận Quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp Biến kế toán dồn tích Lợi nhuận sau thuế Công ty chứng khoánGợi ý tài liệu liên quan:
-
Nhiều công ty chứng khoán ngược dòng suy thoái
6 trang 206 0 0 -
88 trang 128 1 0
-
5 tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại tổ chức tín dụng
4 trang 78 0 0 -
Yếu tố tác động đến hiệu quả kinh doanh: Thực tiễn các công ty chứng khoán Việt Nam
3 trang 66 0 0 -
24 trang 38 0 0
-
Giáo trình Thị trường chứng khoán
163 trang 37 0 0 -
Một số vấn đề về chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán Việt Nam
8 trang 37 0 0 -
34 trang 33 0 0
-
Khóa luận tốt nghiệp: Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp
93 trang 33 0 0 -
Phân tích mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thứ cấp
42 trang 29 0 0