Danh mục

Nhân sâm bào chế tốt hơn sâm tươi

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 210.95 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhân sâm tươi: thông thường ăn rau sống (đã được làm sạch) rất có giá trị dinh dưỡng. Tương tự, có người suy ra: ăn nhân sâm tươi cũng có hiệu nghiệm như thế - cơ thể hấp thu được nhiều dưỡng chất từ nhân sâm tươi, nhưng điều này không đúng. Thành phần chính của nhân sâm gồm 13 loại saponin, có đường và tinh bột...Phần đường với dạng tinh bột chứa trong nhân sâm cũng giống như tinh bột chứa trong gạo, nếu để ở dạng tươi sống không dễ tiêu hóa, chỉ sau khi qua chưng,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhân sâm bào chế tốt hơn sâm tươi Nhân sâm bào chế tốt hơn sâm tươi Nhân sâm tươi: thông thường ăn rau sống (đã được làm sạch) rất cógiá trị dinh dưỡng. Tương tự, có người suy ra: ăn nhân sâm tươi cũng có hiệunghiệm như thế - cơ thể hấp thu được nhiều dưỡng chất từ nhân sâm tươi,nhưng điều này không đúng. Thành phần chính của nhân sâm gồm 13 loạisaponin, có đường và tinh bột... Phần đường với dạng tinh bột chứa trong nhân sâm cũng giống như tinh bộtchứa trong gạo, nếu để ở dạng tươi sống không dễ tiêu hóa, chỉ sau khi qua chưng,hấp phần tinh bột này mới chuyển sang dạng (alpha hóa) dễ hấp thu. Đối với nhân sâm, quá trình của saponin được “alpha hóa” là rất quantrọng, vì như thế mới tận dụng được số lượng cũng như các loại saponin có trongnhân sâm được cơ thể hấp thu và có công hiệu tốt. Như vậy, có thể khẳng địnhhiệu nghiệm của nhân sâm tươi không bằng nhân sâm đã được bào chế, chưng vàhấp. Nhân sâm dung dịch (tinh chiết): gồm có 2 loại, trong đó có một loại tinhchiết từ củ sâm to từ 6 năm tuổi trở lên. Loại này ngậm trong miệng có vị ngọt. Kếđến là nhân sâm tận dụng râu củ sâm. Râu nhân sâm có vị đắng, người ta khôngdùng tươi mà phải hấp hòa tan trong nước để giảm mùi vị. Dung dịch nhân sâmthường được sử dụng trong thực dưỡng (nước uống). Nhân sâm bột: có 2 loại: màu trắng và đỏ. Màu trắng lấy từ nhân sâm tươisau khi phơi khô tán bột, chất đường không được alpha hóa thì cũng giống như bộtgạo tự nhiên không được nấu chín, ít hiệu nghiệm trong phòng, chữa trị bệnh. Như đã biết, hồng sâm và bạch sâm bào chế không giống nhau. Bạch sâmđược chế biến như sau: thu hái sâm có 6 năm tuổi (là tốt nhất), gọt bỏ vỏ ngoài,phơi trong râm mát để hàm lượng nước được giữ lại khoảng 14%. Lớp vỏ ngoàicủa củ nhân sâm có chứa nhiều saponin. Gọt bỏ vỏ là mất lượng saponin này. Hồng sâm được bào chế từ củ nhân sâm 6 năm tuổi (là tốt nhất) trở lên.Người ta xử lý nhân sâm này bằng cách hấp, gia nhiệt rồi phơi khô. Hồng sâm giữđược vỏ, nên giữ được một số saponin. Ngoài bạch sâm và hồng sâm đã được biết đến từ lâu đời, khoảng 10 nămtrở lại đây, các nhà khoa học đã nghiên cứu bào chế nhân sâm ở nhiệt độ thấp vớicông nghệ hiện đại. Loại nhân sâm này có hàm lượng các hoạt chất sinh học caohơn gấp 4 lần nhân sâm được xử lý ở nhiệt độ cao. Đặc biệt, tinh chất ginsenosidRh2, Rh3 có tác dụng ức chế và phòng ngừa ung thư tốt. Bột của loại nhân sâmnày có màu trắng ngà. Công hiệu của nhân sâm còn tùy thuộc vào sự bào chế. Mỗi loại có nhữngđiểm ưu việt khác nhau. O

Tài liệu được xem nhiều: