NHẬP MÔN LOGIC HỌC PHẦN 9
Số trang: 28
Loại file: pdf
Dung lượng: 406.78 KB
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Chương 14 NGỤY BIỆN. I. KHÁI NIỆM Trong thực tế cuộc sống thường ngày cũng như trong khoa học và kỹ thuật ta thường gặp những suy luận nhìn bề ngoài thì có vẻ đúng, có vẻ hợp lý, nhưng nếu xem xét kỹ thì thấy chúng vi phạm các quy tắc logic
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHẬP MÔN LOGIC HỌC PHẦN 9 Chương 14 NGỤY BIỆNI. KHÁI NIỆM Trong thực tế cuộc sống thường ngày cũng như trong khoa học và kỹ thuậtta thường gặp những suy luận nhìn bề ngoài thì có vẻ đúng, có vẻ hợp lý, nhưngnếu xem xét kỹ thì thấy chúng vi phạm các quy tắc logic. Người ta gọi những sailầm không cố ý trong suy luận là sự ngộ biện, còn những sai lầm cố ý thì được gọilà sự ngụy biện. Nếu chỉ xét về mặt logic thì ngụy biện cũng là sai lầm logic. Ngụy biện là sự cố ý vi phạm các quy tắc logic trong suy luận nhằm mụcđích đánh lạc hướng người nghe, người đọc, làm cho người khác nhầm tưởng cáisai là đúng và cái đúng là sai.II. MỘT SỐ LOẠI NGỤY BIỆN THƯỜNG GẶP Ngụy biện có rất nhiều kiểu khác nhau. Sự phân loại ngụy biện đầu tiênđược Aristote tiến hành. Ông chỉ ra 13 loại ngụy biện, hay nói chung là sai lầmlogic, khác nhau. Các nhà logic học về sau này xác định thêm hàng chục loại ngụybiện khác nữa. Nếu căn cứ vào cấu trúc của một phép chứng minh thì ta có thể chiangụy biện ra thành ba loại: ngụy biện liên quan đến luận cứ, ngụy biện liên quanđến luận đề, và ngụy biện liên quan đến lập luận. Nhưng cụ thể hơn, người ta cóthể phân chia ngụy biện thành các loại căn cứ vào các thủ pháp mà nhà ngụy biệnsử dụng. Sau đây ta sẽ xét một số kiểu ngụy biện theo cách phân chia này. 1. Ngụy biện dựa vào uy tín cá nhân Trong kiểu ngụy biện này, đáng lẽ phải đưa ra dẫn chứng, đưa ra chứng cứcho lập luận của mình, thì nhà ngụy biện lại dựa vào uy tín của người khác để thaythế. Làm như vậy là ngụy biện, bởi vì uy tín của một người không đảm bảo chắcchắn rằng tất cả những điều mà người đó nói đều đúng. Không phải uy tín làm chocâu nói của người ta đúng, mà ngược lại, chính cái đúng của những câu nói củamột người tạo nên uy tín cho người đó. Ví dụ 1. Khi giáo viên nói rằng hai đường thẳng song song không bao giờ cắt nhau, có học sinh nghi ngờ điều đó và đòi hỏi phải được giải thích. Sau khi cố gắng giải thích mà không đạt và học sinh đó vẫn164 chưa chịu công nhận, giáo viên bèn nói: “Euclide đã khẳng định như vậy, em không tin Euclide hay sao?” Ở đây giáo viên đã sử dụng uy tín của Euclide để thay thế cho chứng cứ. Ví dụ 2. Giảng viên nói rằng, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản độc quyền chủ nghĩa xã hội có thể thắng ở một nước, - là khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản -, chứ không đòi hỏi phải thắng ở một loạt các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất như trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Nghe vậy, một số thính giả đòi hỏi giải thích. Thay vì đưa ra các chứng cứ và lập luận chứng minh cho luận điểm mà mình đã nêu, giảng viên nói rằng luận điểm đó chắc chắn đúng, vì Lênin đã nói như vậy. Ở đây, giảng viên trên đã dựa vào uy tín của Lênin thay thế cho việc chứngminh. Lẽ ra ông ta phải chứng minh luận điểm đó như Lênin đã làm. 2. Ngụy biện dựa vào đám đông, dựa vào dư luận Ngụy biện dựa vào đám đông thường xảy ra ở những cuộc tranhluận trước một đám đông người. Nhà ngụy biện sử dụng khả năng hùng biệncủa mình, lợi dụng truyền thống, tình cảm, quyền lợi, thói quen, … của đámđông để tranh thủ cảm tình và sự ủng hộ của đám đông đó, tạo áp lực buộcnhững người tranh luận với ông ta phải chấp nhận quan điểm của ông ta.Trong kiểu ngụy biện dựa vào dư luận, thay cho việc đưa ra luận cứ vàchứng minh luận điểm, người nói lại cho rằng luận điểm là đúng vì có nhiềungười công nhận như vậy. Đây là lập luận ngụy biện, vì nhiều người cho làđúng chưa đảm bảo tính đúng đắn của luận điểm; ngược lại, nhiều ngườicho là sai cũng không có nghĩa là luận điểm chắc chắn sai. Ví dụ 3. Không phải vì rất nhiều người coi rằng ông X phạm tội giết người nên đúng là ông ta giết người. Ví dụ 4. Hồi đầu thế kỷ XX, khi nhà bác học Einstein đưa ra thuyết tương đối, nhiều nhà vật lý học cho rằng nó sai. Và ta đã thấy rằng không phải vì vậy mà thuyết tương đối sai, ngược lại, tính đúng đắn của nó đã được lịch sử vật lý học kiểm chứng. 3. Ngụy biện dựa vào sức mạnh Trong kiểu ngụy biện này, nhà ngụy biện sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sửdụng vũ lực để ép người khác tin vào và chấp nhận luận điểm của mình. Ở đây, sứcmạnh chứ không phải là tính chân lý của luận điểm bắt người nghe phải tin theo. Ví dụ 5. Một giám đốc ra lệnh cho kế toán phải chi một khoản tiền sai nguyên tắc. Người kế toán phản đối, nói rằng làm như vậy là trái nguyên tắc tài chính. Khi đó, vị giám đốc nói:“Cứ làm như tôi nói, chắc chắn sẽ đúng. Nếu anh không làm, tôi sẽ cho anh biết…”. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHẬP MÔN LOGIC HỌC PHẦN 9 Chương 14 NGỤY BIỆNI. KHÁI NIỆM Trong thực tế cuộc sống thường ngày cũng như trong khoa học và kỹ thuậtta thường gặp những suy luận nhìn bề ngoài thì có vẻ đúng, có vẻ hợp lý, nhưngnếu xem xét kỹ thì thấy chúng vi phạm các quy tắc logic. Người ta gọi những sailầm không cố ý trong suy luận là sự ngộ biện, còn những sai lầm cố ý thì được gọilà sự ngụy biện. Nếu chỉ xét về mặt logic thì ngụy biện cũng là sai lầm logic. Ngụy biện là sự cố ý vi phạm các quy tắc logic trong suy luận nhằm mụcđích đánh lạc hướng người nghe, người đọc, làm cho người khác nhầm tưởng cáisai là đúng và cái đúng là sai.II. MỘT SỐ LOẠI NGỤY BIỆN THƯỜNG GẶP Ngụy biện có rất nhiều kiểu khác nhau. Sự phân loại ngụy biện đầu tiênđược Aristote tiến hành. Ông chỉ ra 13 loại ngụy biện, hay nói chung là sai lầmlogic, khác nhau. Các nhà logic học về sau này xác định thêm hàng chục loại ngụybiện khác nữa. Nếu căn cứ vào cấu trúc của một phép chứng minh thì ta có thể chiangụy biện ra thành ba loại: ngụy biện liên quan đến luận cứ, ngụy biện liên quanđến luận đề, và ngụy biện liên quan đến lập luận. Nhưng cụ thể hơn, người ta cóthể phân chia ngụy biện thành các loại căn cứ vào các thủ pháp mà nhà ngụy biệnsử dụng. Sau đây ta sẽ xét một số kiểu ngụy biện theo cách phân chia này. 1. Ngụy biện dựa vào uy tín cá nhân Trong kiểu ngụy biện này, đáng lẽ phải đưa ra dẫn chứng, đưa ra chứng cứcho lập luận của mình, thì nhà ngụy biện lại dựa vào uy tín của người khác để thaythế. Làm như vậy là ngụy biện, bởi vì uy tín của một người không đảm bảo chắcchắn rằng tất cả những điều mà người đó nói đều đúng. Không phải uy tín làm chocâu nói của người ta đúng, mà ngược lại, chính cái đúng của những câu nói củamột người tạo nên uy tín cho người đó. Ví dụ 1. Khi giáo viên nói rằng hai đường thẳng song song không bao giờ cắt nhau, có học sinh nghi ngờ điều đó và đòi hỏi phải được giải thích. Sau khi cố gắng giải thích mà không đạt và học sinh đó vẫn164 chưa chịu công nhận, giáo viên bèn nói: “Euclide đã khẳng định như vậy, em không tin Euclide hay sao?” Ở đây giáo viên đã sử dụng uy tín của Euclide để thay thế cho chứng cứ. Ví dụ 2. Giảng viên nói rằng, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản độc quyền chủ nghĩa xã hội có thể thắng ở một nước, - là khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản -, chứ không đòi hỏi phải thắng ở một loạt các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất như trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Nghe vậy, một số thính giả đòi hỏi giải thích. Thay vì đưa ra các chứng cứ và lập luận chứng minh cho luận điểm mà mình đã nêu, giảng viên nói rằng luận điểm đó chắc chắn đúng, vì Lênin đã nói như vậy. Ở đây, giảng viên trên đã dựa vào uy tín của Lênin thay thế cho việc chứngminh. Lẽ ra ông ta phải chứng minh luận điểm đó như Lênin đã làm. 2. Ngụy biện dựa vào đám đông, dựa vào dư luận Ngụy biện dựa vào đám đông thường xảy ra ở những cuộc tranhluận trước một đám đông người. Nhà ngụy biện sử dụng khả năng hùng biệncủa mình, lợi dụng truyền thống, tình cảm, quyền lợi, thói quen, … của đámđông để tranh thủ cảm tình và sự ủng hộ của đám đông đó, tạo áp lực buộcnhững người tranh luận với ông ta phải chấp nhận quan điểm của ông ta.Trong kiểu ngụy biện dựa vào dư luận, thay cho việc đưa ra luận cứ vàchứng minh luận điểm, người nói lại cho rằng luận điểm là đúng vì có nhiềungười công nhận như vậy. Đây là lập luận ngụy biện, vì nhiều người cho làđúng chưa đảm bảo tính đúng đắn của luận điểm; ngược lại, nhiều ngườicho là sai cũng không có nghĩa là luận điểm chắc chắn sai. Ví dụ 3. Không phải vì rất nhiều người coi rằng ông X phạm tội giết người nên đúng là ông ta giết người. Ví dụ 4. Hồi đầu thế kỷ XX, khi nhà bác học Einstein đưa ra thuyết tương đối, nhiều nhà vật lý học cho rằng nó sai. Và ta đã thấy rằng không phải vì vậy mà thuyết tương đối sai, ngược lại, tính đúng đắn của nó đã được lịch sử vật lý học kiểm chứng. 3. Ngụy biện dựa vào sức mạnh Trong kiểu ngụy biện này, nhà ngụy biện sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sửdụng vũ lực để ép người khác tin vào và chấp nhận luận điểm của mình. Ở đây, sứcmạnh chứ không phải là tính chân lý của luận điểm bắt người nghe phải tin theo. Ví dụ 5. Một giám đốc ra lệnh cho kế toán phải chi một khoản tiền sai nguyên tắc. Người kế toán phản đối, nói rằng làm như vậy là trái nguyên tắc tài chính. Khi đó, vị giám đốc nói:“Cứ làm như tôi nói, chắc chắn sẽ đúng. Nếu anh không làm, tôi sẽ cho anh biết…”. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
logic học nghiên cứu khoa học kỹ năng suy luận tư duy logic tâm lý họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1547 4 0 -
Giáo trình Tiếng Anh chuyên ngành tâm lý học
275 trang 489 0 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 487 0 0 -
Đề tài 'Tìm hiểu thực trạng việc sống thử của sinh viên hiện nay'
13 trang 377 0 0 -
Giáo trình Tâm lý học phát triển: Phần 1 - Vũ Thị Nho
84 trang 357 7 0 -
57 trang 337 0 0
-
33 trang 329 0 0
-
10 trang 319 0 0
-
Giáo trình Kỹ năng tư duy phản biện: Phần 1 - PGS.TS Lê Thanh Sơn
103 trang 307 1 0 -
17 trang 292 0 0