Cấu tạo của mắt rất hợp với thuốc tra, nhỏ mắt Con mắt có kích thước nhỏ bé (đường kính trước sau khoảng 22mm, đường kính ngang 15-16mm) lại nằm sau túi kết mạc nên rất dễ ngấm thuốc, hơn nữa lại mở lộ ra ngoài cơ thể. Do đó, thuốc tra nhỏ vào mắt trực tiếp được dùng nhiều hơn hẳn so với thuốc tiêm và thuốc uống. Rất nhiều dược chất phục vụ cho chữa bệnh hoặc dinh dưỡng mắt có thể pha chế thành các dạng thuốc tra, nhỏ như:- Các kháng sinh như chloramphenicol, streptomycine,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhỏ mắt đúng cách Nhỏ mắt đúng cách Không nên ngồi để nhỏ mắt. Cấu tạo của mắt rất hợp với thuốc tra, nhỏ mắt Con mắt có kích thước nhỏ bé (đường kính trước sau khoảng 22mm, đườngkính ngang 15-16mm) lại nằm sau túi kết mạc nên rất dễ ngấm thuốc, hơn nữa lạimở lộ ra ngoài cơ thể. Do đó, thuốc tra nhỏ vào mắt trực tiếp được dùng nhiều hơnhẳn so với thuốc tiêm và thuốc uống. Rất nhiều dược chất phục vụ cho chữa bệnhhoặc dinh dưỡng mắt có thể pha chế thành các dạng thuốc tra, nhỏ như: - Các kháng sinh như chloramphenicol, streptomycine, penicilline,oreomycine, gentamycine... - Các thuốc chống viêm như: cortizol, indomethacine... - Thuốc thay đổi kích thước đồng tử như: atropine, pilocarpine... - Thuốc dinh dưỡng mắt như: catacol (làm chậm đục thể thủy tinh)... - Thuốc tăng năng lực điều tiết cho mắt như correctol... - Nước mắt nhân tạo (giúp mắt đỡ khô rát): tears natural... Với rất nhiều các bệnh về mắt, đặc biệt là bệnh kết giác mạc, thuốc tra, nhỏlà chủ yếu. Thuốc tiêm, uống chỉ dùng khi thật cần thiết. Tiêu chí của thuốc tra, nhỏ mắt Giống như thuốc tiêm bắp, tiêm dưới da, trong da, thuốc tra, nhỏ mắt cóyêu cầu an toàn rất chặt chẽ về các mặt sau: - Áp lực thẩm thấu phải đạt đẳng trương (tương đương với dung dịch muối0,9%). - Độ pH trung tính (pH xấp xỉ 7). - Không được hủy mô (thiêu nhục), không gây bỏng rát, kích ứng. - Thuốc sạch, vô trùng, không sạn, cặn. Chính vì vậy mà tra, nhỏ mắt phải chế tạo theo kỹ thuật dược mắt. Takhông thể mang bột penicilline, bột streptpmycine pha với nước cất để nhỏ mắtcho dù là các dược phẩm cùng tên vẫn bán trên thị trường. Thuốc thành phẩm bôida như cortizol, gentamycine cũng không thể đem tra vào mắt thay thế cho mỡcortizol hay gentamycine loại tra mắt. Bởi vì độ pH và thẩm thấu muối của thuốcngoài da có quy định khác mà các màng mắt không chịu nổi. Thế nhưng các thuốctra, nhỏ mắt lại có thể tra, bôi vào bất cứ bộ phận nào trên cơ thể (tai, mũi, họng,da). Ngoài các yếu tố bắt buộc như đã nêu trên thì bất kỳ dung dịch thuốc nàotiêm được vào bắp hay dưới da đều có thể nhỏ vào mắt được khi cần thiết (vì pHvà độ thẩm thấu của chúng cũng giống như thuốc nhỏ mắt) trừ các thuốc gây nóngrát như dầu long não, dầu eucalyptus. Người ta dùng thuốc tiêm prostigmine nhỏ mắt để điều trị cơn glôcôm cấpcũng được mặc dù thuốc này thường dùng cho người nhược cơ. Tiện và bất tiện của từng dạng thuốc này Thuốc nhỏ mắt - Rất tiện cho người dùng, có khi tự tra, nhỏ được. - Giảm công pha chế cho nhà sản xuất vì làm thuốc mỡ phải trộn dược chấtvới vaseline hay lanoline. - Bất tiện của thuốc nhỏ nước là trôi xuống lệ đạo, giữ ở khe mắt khôngđược lâu nên ngày phải nhỏ nhiều lần. Thuốc tra mắt dạng mỡ - Giữ được lâu trong mắt và ngấm khá sâu do chất mỡ xuyên qua màng tếbào. - Thoát chậm xuống lệ đạo, ngày tra số lần ít hơn so với thuốc nước. - Nhược điểm là động tác tra phức tạp, nói chung không tự tra lấy được. - Gây dính dáp, vướng víu cho mắt, đồng thời cản trở việc liền sẹo cho vếtthương mắt (bởi vì muốn liền sẹo được thì tế bào phải áp sát vào nhau “bắt tay”nhau mà chất mỡ lại ngăn cản việc này). Thuốc mắt dạng nhày, nhớt (gel) Hiện nay dạng thuốc này hay gặp trên thị trường. Xem nhãn mác sẽ thấy cócấu tạo phụ gia là methylcellulose thì đó là thuốc nhày nhớt. Thuốc có thuận lợi làgây cảm giác êm dịu cho mắt, giữ được lâu (do thuốc nhớt, chậm thoát xuống lệđạo). Tuy nhiên cũng do thuốc chậm thoát xuống lệ đạo nên trong thời gian dùngthuốc người ta thấy lệ đạo kém thông, thuốc đắng nhỏ không xuống được đườngmũi họng. Thêm nữa, phần thuốc dây ra bờ mi và lông mi sau khi khô đi, gây cảmgiác bó cứng chân lông mi. Ưu điểm chung của loại thuốc mỡ và gel là bảo quản được lâu (do thuốckhông di chuyển trong vỏ đựng nên đỡ tiếp xúc với không khí, đỡ bị ôxy hóa). Cóhóa dược chỉ bảo quản ở thuốc nước trong 1 tuần nhưng với thuốc mỡ là một nămrưỡi. Mỗi loại thuốc vừa nói, với ưu nhược điểm khác nhau nên gây ra thị hiếukhác nhau với người chỉ định và người tiêu dùng. Các thầy thuốc Pháp thì ưa kêthuốc mắt mỡ, các thầy thuốc Anh lại không ưa thuốc mắt mỡ. Cách tra, nhỏ thuốc mắt Với thuốc nhỏ nước hoặc nhày nhớt Nhỏ vài ba giọt vào góc mắt phía trong (sát gốc mũi). Nhỏ xong lấy ngóntay kéo nhẹ mi dưới xuống. Làm như vậy thuốc sẽ chan hòa khắp mắt. Với trẻ emđộng tác đó càng cần thiết. Các em thường sợ, cứ nhắm nghiền mắt. Nhiều khi rấtkhó bảo các em mở to mắt ra. Ta cứ nhỏ vài giọt vào góc mắt phía trong. Sau đókéo nhẹ mi dưới, thuốc sẽ không bị chảy ra ngoài. Với thuốc mỡ mắt Không nên và k ...