Như tình nghĩa vợ chồng...
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 863.62 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cũng từ đó bánh Su Sê được gọi là bánh Phu Thê, buộc từng cặp bằng lạt điều và là một trong những lễ vật không thể thiếu trong đám cưới hỏi, bởi nó như một biểu tượng về lòng chung thủy, gắn bó sắt son của tình vợ chồng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Như tình nghĩa vợ chồng...Như tình nghĩa vợ chồng...Cũng từ đó bánh Su Sê được gọi là bánh Phu Thê, buộc từng cặp bằnglạt điều và là một trong những lễ vật không thể thiếu trong đám cướihỏi, bởi nó như một biểu tượng về lòng chung thủy, gắn bó sắt son củatình vợ chồng.Chiếc bánh gồm có hai phần chính tượng trưng cho âm và dương, vợ vàchồng. Phần thân bánh trắng trong mịn màng tượng trưng cho âm (vợ), cònphần nắp chỉn chu vuông vắn ôm lấy thân bánh tượng trưng cho dương(chồng). Về hình thức là vậy, còn nội dung của bánh phu thê cũng có phầnđặc biệt và thú vị không kém. Bánh phu thê đem lại cho người thưởng thứccái cảm giác vừa giòn vừa dai của cái chất bột lọc để nguội, vừa sần sật củanhững cọng cơm dừa non, vừa có cái ngầy ngậy béo của nhân đậu xanh, vừacó cái hương thơm dìu dịu của vani, của lá cơm nếp, vừa có cái vị ngọt thanhmát của đường cáttrắng.Bánh Phu Thê là sản phẩm của sự pha chế tổng hợp, nguyên liệu được làmtừ những sản vật của đồng quê: Vỏ bánh chế từ gạo nếp cái hoa vàng, xaymịn, lọc lấy tinh bột, nhào đu đủ xanh nạo nhỏ, ngâm nước quả dành dànhđể tạo màu vàng. Nhân bánh được làm bằng đậu xanh đồ chín, xào nhuyễnvới đường kính, mứt sen, mứt bí, cùi dừa nạo nhỏ... Từng ấy thứ tổng hợp lạivới nhau, bổ sung lẫn nhau để cho ta chất béo, chất bột, chất khoáng. Nókhông những có giá trị dinh dưỡng cao mà còn tạo nên một hương vị vừađộc đáo, vừa ngon miệng, vừa nồng nàn khó quên. Béo, ngọt, mịn màngtrong suốt như hổ phách và tác động tới mọi giác quan: mũi ngửi thấy hươngthơm nhẹ nhàng nhưng rất sâu của lúa nếp và đậu xanh, mứt sen; mắt nhìnthấy nền lụa trắng của vỏ bánh với thấp thoáng những vân mây, lưỡithưởng thức vị ngon của đồ ăn, tai nghe tiếng lá bóc sộtsoạt.Có hai thương hiệu làm bánh phu thê rất nổi tiếng đó là Huế và Đình Bản.Dù cả hai đều là sản phẩm của đất cố đô, đều mang nhưng nét tinh túy củaquê hương các bậc tiên vương, nhưng bánh Phu Thê c ủa Huế khác với PhuThê của Đình Bảng là ở cách làm và nguyên liệu làm bằng bột sắn lọc. Cáigiống nhau đều là dùng nhân đậu xanh và dừa nạo hấp chín. Người ĐìnhBảng thực sự khó tính. Họ tuân thủ những quy định nghiêm ngặt sao cho sảnphẩm mình làm ra phải là nhất, bánh phải ngon hơn, thơm hơn, và quyến rũhơn. Tuy nhiên, họ lại không cầu kỳ trong cách gọi mà ngay cả tên bánh PhuThê cùng phải có mấy cách gọi khác nhau. Theo như các cụ già trong làng,thậm chí là các gia đình có 3, 4 đời làm bánh như nhà bà Lụa, nhà Đào Hoa,nhà Lợi Quyền thì từ bánh Phu Thê nó xuất phát từ tên gọi Su Sê. Sự thayđổi này được lý giải giống như là sự phát triển của cơ chế thị trường, nhằmđánh mạnh vào tình cảm con người. Chí ít thì người ta nghĩ và tin tưởngrằng, được ăn bánh này thì gia đình sẽ hạnh phúc hơn. Đó cũng chính là sựphát triển của tâm lý xã hội thời hiện đại. Theo truyền thuyết,thời Lý vào những ngày hội hè hay ngày Tết, dân làng Đình Bảng thườngdùng sản vật mình đã cấy trồng ra làm bánh Su Sê, thành tâm dâng cúng tổtiên, rồi cùng hưởng lộc. Một lần hội làng, Lý Thánh Tông cùng vợ làNguyên phi Ỷ Lan về quê lễ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ở Đền Đô. Tạiđây, dân làng đã dâng Đức vua và Nguyên Phi đặc sản của quê hương làbánh Su Sê. Đức vua và Nguyên Phi thưởng thức món bánh này và khenngon. Người cho rằng, cuộc đời con người có được hạnh phúc là niềm vuilớn của mỗi lứa đôi, và truyền từ nay, ngày ăn hỏi, ngày cưới thành vợ thànhchồng nên có món bánh quý này cho mọi người cùng hưởng. Cũng từ đóbánh Su Sê được gọi là bánh Phu Thê, buộc từng cặp bằng lạt điều và là mộttrong những lễ vật không thể thiếu trong đám cưới hỏi, bởi nó như một biểutượng về lòng chung thủy, gắn bó sắt son của tình vợchồng.Tục lệ gói bánh Phu Thê cứ như vậy truyền từ đời này sang đời khác. Bánhgói bằng lá chuối, lá dong, quý hơn thì có lá dừa bọc ngoài thành hình vuôngdẹt. Thoạt trông, việc luộc bánh có vẻ đơn giản, nhưng đây lại chính là giaiđoạn công phu thể hiện độ chín của người làm bánh, nhiều người còn cho nócó tính quyết định đến thành công của cả mẻ bánh. Vì vậy mà những nhàlàm bánh ngon có tiếng thì chắc chắn họ phải biết giữ lửa khi nấu. Khi nàocần lửa to, và cần lửa trong bao lâu... Và tất cả cứ từ từ trở thành một nghệthuật đa dạng trong cách làm, nhưng lại cùng chung một tiêu chí ngon,thơm, dẻo. Bánh ngon ăn xong, hương thơm còn phảng phất lẫn trong tìnhcảm của mỗi người. Ngược lại, bánh không ngon là bánh nhão, hương khôngnồng. Điều này lý giải tại sao với mỗi nghệ nhân khi làm bánh Phu Thê, họhầu như dồn hết tâm sức của mình vào đó. Ngoài tâm hồn tài hoa của ngườithợ, nếu thiếu một tấm lòng chứa chất thương yêu thì khó có thể có được cặpbánh Phu Thê hoàn mỹ. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Như tình nghĩa vợ chồng...Như tình nghĩa vợ chồng...Cũng từ đó bánh Su Sê được gọi là bánh Phu Thê, buộc từng cặp bằnglạt điều và là một trong những lễ vật không thể thiếu trong đám cướihỏi, bởi nó như một biểu tượng về lòng chung thủy, gắn bó sắt son củatình vợ chồng.Chiếc bánh gồm có hai phần chính tượng trưng cho âm và dương, vợ vàchồng. Phần thân bánh trắng trong mịn màng tượng trưng cho âm (vợ), cònphần nắp chỉn chu vuông vắn ôm lấy thân bánh tượng trưng cho dương(chồng). Về hình thức là vậy, còn nội dung của bánh phu thê cũng có phầnđặc biệt và thú vị không kém. Bánh phu thê đem lại cho người thưởng thứccái cảm giác vừa giòn vừa dai của cái chất bột lọc để nguội, vừa sần sật củanhững cọng cơm dừa non, vừa có cái ngầy ngậy béo của nhân đậu xanh, vừacó cái hương thơm dìu dịu của vani, của lá cơm nếp, vừa có cái vị ngọt thanhmát của đường cáttrắng.Bánh Phu Thê là sản phẩm của sự pha chế tổng hợp, nguyên liệu được làmtừ những sản vật của đồng quê: Vỏ bánh chế từ gạo nếp cái hoa vàng, xaymịn, lọc lấy tinh bột, nhào đu đủ xanh nạo nhỏ, ngâm nước quả dành dànhđể tạo màu vàng. Nhân bánh được làm bằng đậu xanh đồ chín, xào nhuyễnvới đường kính, mứt sen, mứt bí, cùi dừa nạo nhỏ... Từng ấy thứ tổng hợp lạivới nhau, bổ sung lẫn nhau để cho ta chất béo, chất bột, chất khoáng. Nókhông những có giá trị dinh dưỡng cao mà còn tạo nên một hương vị vừađộc đáo, vừa ngon miệng, vừa nồng nàn khó quên. Béo, ngọt, mịn màngtrong suốt như hổ phách và tác động tới mọi giác quan: mũi ngửi thấy hươngthơm nhẹ nhàng nhưng rất sâu của lúa nếp và đậu xanh, mứt sen; mắt nhìnthấy nền lụa trắng của vỏ bánh với thấp thoáng những vân mây, lưỡithưởng thức vị ngon của đồ ăn, tai nghe tiếng lá bóc sộtsoạt.Có hai thương hiệu làm bánh phu thê rất nổi tiếng đó là Huế và Đình Bản.Dù cả hai đều là sản phẩm của đất cố đô, đều mang nhưng nét tinh túy củaquê hương các bậc tiên vương, nhưng bánh Phu Thê c ủa Huế khác với PhuThê của Đình Bảng là ở cách làm và nguyên liệu làm bằng bột sắn lọc. Cáigiống nhau đều là dùng nhân đậu xanh và dừa nạo hấp chín. Người ĐìnhBảng thực sự khó tính. Họ tuân thủ những quy định nghiêm ngặt sao cho sảnphẩm mình làm ra phải là nhất, bánh phải ngon hơn, thơm hơn, và quyến rũhơn. Tuy nhiên, họ lại không cầu kỳ trong cách gọi mà ngay cả tên bánh PhuThê cùng phải có mấy cách gọi khác nhau. Theo như các cụ già trong làng,thậm chí là các gia đình có 3, 4 đời làm bánh như nhà bà Lụa, nhà Đào Hoa,nhà Lợi Quyền thì từ bánh Phu Thê nó xuất phát từ tên gọi Su Sê. Sự thayđổi này được lý giải giống như là sự phát triển của cơ chế thị trường, nhằmđánh mạnh vào tình cảm con người. Chí ít thì người ta nghĩ và tin tưởngrằng, được ăn bánh này thì gia đình sẽ hạnh phúc hơn. Đó cũng chính là sựphát triển của tâm lý xã hội thời hiện đại. Theo truyền thuyết,thời Lý vào những ngày hội hè hay ngày Tết, dân làng Đình Bảng thườngdùng sản vật mình đã cấy trồng ra làm bánh Su Sê, thành tâm dâng cúng tổtiên, rồi cùng hưởng lộc. Một lần hội làng, Lý Thánh Tông cùng vợ làNguyên phi Ỷ Lan về quê lễ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ở Đền Đô. Tạiđây, dân làng đã dâng Đức vua và Nguyên Phi đặc sản của quê hương làbánh Su Sê. Đức vua và Nguyên Phi thưởng thức món bánh này và khenngon. Người cho rằng, cuộc đời con người có được hạnh phúc là niềm vuilớn của mỗi lứa đôi, và truyền từ nay, ngày ăn hỏi, ngày cưới thành vợ thànhchồng nên có món bánh quý này cho mọi người cùng hưởng. Cũng từ đóbánh Su Sê được gọi là bánh Phu Thê, buộc từng cặp bằng lạt điều và là mộttrong những lễ vật không thể thiếu trong đám cưới hỏi, bởi nó như một biểutượng về lòng chung thủy, gắn bó sắt son của tình vợchồng.Tục lệ gói bánh Phu Thê cứ như vậy truyền từ đời này sang đời khác. Bánhgói bằng lá chuối, lá dong, quý hơn thì có lá dừa bọc ngoài thành hình vuôngdẹt. Thoạt trông, việc luộc bánh có vẻ đơn giản, nhưng đây lại chính là giaiđoạn công phu thể hiện độ chín của người làm bánh, nhiều người còn cho nócó tính quyết định đến thành công của cả mẻ bánh. Vì vậy mà những nhàlàm bánh ngon có tiếng thì chắc chắn họ phải biết giữ lửa khi nấu. Khi nàocần lửa to, và cần lửa trong bao lâu... Và tất cả cứ từ từ trở thành một nghệthuật đa dạng trong cách làm, nhưng lại cùng chung một tiêu chí ngon,thơm, dẻo. Bánh ngon ăn xong, hương thơm còn phảng phất lẫn trong tìnhcảm của mỗi người. Ngược lại, bánh không ngon là bánh nhão, hương khôngnồng. Điều này lý giải tại sao với mỗi nghệ nhân khi làm bánh Phu Thê, họhầu như dồn hết tâm sức của mình vào đó. Ngoài tâm hồn tài hoa của ngườithợ, nếu thiếu một tấm lòng chứa chất thương yêu thì khó có thể có được cặpbánh Phu Thê hoàn mỹ. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Văn hóa ẩm thực Xu hướng ẩm thực bữa ăn của người Việt ẩm thực Việt Nam khuynh hướng ẩm thựcTài liệu liên quan:
-
Giáo trình Văn hóa ẩm thực Việt Nam và thế giới: Phần 2
135 trang 306 6 0 -
Báo cáo khoa học Bước đầu tìm hiểu văn hóa ẩm thực Trà Vinh
61 trang 254 0 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực (Trình độ: Cao đẳng & Trung cấp) - Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai
98 trang 249 5 0 -
69 trang 233 5 0
-
Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn
21 trang 196 0 0 -
từ điển văn hóa ẩm thực việt nam: phần 2
418 trang 189 4 0 -
Vài nét về văn hóa ẩm thực Nam Bộ
4 trang 158 0 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực Việt Nam và thế giới: Phần 1
163 trang 143 6 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực: Phần 2 - Thạc sĩ Nguyễn Văn Nhựt
92 trang 97 0 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực: Phần 2 - Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội
201 trang 88 1 0