.Nhà hóa sinh học Mỹ Casimir Funk (18841967) là người đầu tiên dùng thuật ngữ này. Năm 1912, ông đưa ra kết luận: Nhiều bệnh suy dinh dưỡng hình thành do sự thiếu vắng các yếu tố thức ăn phụ. Ông gọi nó là vitamine. Theo tiếng Latin, “vita” có nghĩa là “sự sống” và “amine” là thành phần hóa học cần thiết cho sự sống. Ngay từ xa xưa, con người đã biết rằng ngoài những món ăn như thịt cá, cơ thể luôn cần các chất từ rau quả tươi. Sự thiếu hụt những chất này sẽ gây...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những câu chuyện về vitaminNhững câu chuyện về vitamin Nhà hóa sinh học Mỹ Casimir Funk (1884-1967) là người đầu tiên dùng thuật ngữ này. Năm 1912,ông đưa ra kết luận: Nhiều bệnh suy dinh dưỡng hìnhthành do sự thiếu vắng các yếu tố thức ăn phụ. Ông gọinó là vitamine. Theo tiếng Latin, “vita” có nghĩa là “sựsống” và “amine” là thành phần hóa học cần thiết cho sựsống.Ngay từ xa xưa, con người đã biết rằng ngoài những món ănnhư thịt cá, cơ thể luôn cần các chất từ rau quả tươi. Sự thiếuhụt những chất này sẽ gây hại cho sức khỏe và dẫn đến bệnhtật, thể hiện rõ nhất ở những người đi biển lâu ngày. Tuynhiên, lúc ấy chưa ai hiểu rõ tại sao.Đến giữa thế kỷ 16, qua kinh nghiệm của nhiều đoàn thủythủ, mọi chuyện mới dần dần được sáng tỏ. Tháng 5/1534,nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier dẫn một đoàn 110thủy thủ rời cảng Saint Malo thuộc miền bắc nước Pháp, trênbờ biển Manche, để tìm đường đến châu Á. Trong nhật ký duhành có đoạn ghi: “Một số thủy thủ có các dấu hiệu như mệtmỏi, hai chân sưng phù, nướu (lợi) miệng loét hôi, niêm mạcvà da bong từng mảng, răng rơi rụng dần...”. Cũng thời gianđó, John Woodall, một người Anh từng phục vụ lâu ngày ởcông ty tàu biển Ấn Độ đã ghi chép: “Nhiều thợ trên tàu bịbệnh nướu (lợi), răng chảy máu, phù chi, nổi mẩn và ngứakhắp người. Sau khi uống nước rau tươi và hoa quả thì khỏibệnh”. Tuy nhiên, tất cả các kinh nghiệm này vẫn chỉ lànhững ghi nhận tản mạn, chưa được xác định trên cơ sở khoahọc.Giữa thế kỷ 18, bác sĩ James Lind thuộc hải quân Anh đã xácnhận, ở những thủy thủ đi biển lâu ngày luôn xuất hiện nhiềudấu hiệu bệnh do chế độ ăn thiếu rau quả tươi, đó là bệnhscorbut. Năm 1747, trong chuyến đi trên tàu Salisbury, ôngđã tiến hành thử nghiệm và thu được kết quả: những thủy thủăn đầy đủ rau quả tươi không mắc bệnh, trong khi nhữngngười khác đều có dấu hiệu của bệnh scorbut. Năm 1753,James Lind đã viết một cuốn sách thông báo hiện tượng nàynhưng mãi tới năm 1795 (nghĩa là 42 năm sau khi ông quađời), các nhà khoa học mới chú ý đến nó và hải quân mới cónhững quy định về chế độ ăn rau quả tươi trên tàu biển.Năm 1907, hai nhà khoa học Axel Holst và Theodor Frolichdự tính dùng chế độ ăn giảm thiểu để gây suy dinh dưỡng ởchuột lang; và ngẫu nhiên họ lại gây được bệnh scorbut trongthử nghiệm. Nhờ đó, giới y học mới hiểu thêm được quátrình hình thành dạng bệnh này.Năm 1912, sau một thời gian dài nghiên cứu các bệnh nhưberi-beri, scorbut và nhiều bệnh suy dinh dưỡng khác,Casimir Funk mới phát hiện ra vitamin. Cũng chính ông làngười sau này đã khẳng định vai trò của vitamin C trong việcphòng chống bệnh scorbut. Mãi đến năm 1920, JackDrummond mới xác định “yếu tố phụ cần thiết cho sự sống”không phải là amine như Funk tưởng và đề nghị bỏ chữ “e”để tránh gây sự ngộ nhận về tính chất hóa học. Từ đó, thuậtngữ “vitamin” được chính thức sử dụng trong y văn.Năm 1928, trong khi nghiên cứu hiện tượng oxy hóa tế bào,Szent Giorgyi, nhà sinh hóa Mỹ, đã phân lập được từ tuyếnthượng thận một chất và đặt tên là hexuronic acid, thực ra làvitamin C hòa tan trong nước. Nhờ phát hiện này, ông đượctặng giải Nobel Y học. Năm 1932, W.A. Waugh và CharlesKing phân lập được vitamin C từ chanh và xác nhận có tínhchất giống hệt hexuronic acid. Năm 1933, vitamin C đượcgọi với tên ascorbic acid và tới năm sau thì được tổng hợpnhờ công trình nghiên cứu của nhà hóa học người AnhWalter Haworth). Như vậy, vitamin C đã được biết đến sớmnhất.Sự phát hiện vitamin BKhoảng giữa thế kỷ 18, Jacob de Bondt, một thầy thuốc làmviệc tại Batavia ở miền đông Ấn Độ thuộc Hà Lan đã viếtcuốn sách “Y học Ấn Độ”, trong đó mô tả một căn bệnh phổbiến ở dân cư vùng này. Người ốm mất trương lực bàn tay,cánh tay, cơ chi dưới suy yếu kèm viêm dây thần kinh ngoạivi. Nhưng mãi đến năm 1642 (nghĩa là sau khi Bondt qua đời11 năm), gia đình mới phát hiện và cho xuất bản cuốn sách.Sau đó, nhiều thầy thuốc ở vùng Viễn Đông cũng thông báomột số trường hợp có triệu chứng tương tự và gọi tên là bệnhberi beri (tiếng Sri Lanka là mỏi mệt, suy nhược). Năm 1881,Erwin Von Balcz xác nhận, dạng bệnh suy nhược cơ chi kháphổ biến ở nhiều vùng dân cư Nhật. Trong suốt 4 năm (1882-1885), Kanehiro Takaki, Tổng Giám đốc Y khoa Hải quânNhật đã loại trừ dạng bệnh này trong thủy quân nhờ áp dụngchế độ ăn gạo cám, hoa quả tươi.Năm 1890, Christian Eijkman, thầy thuốc ngoại khoa và vệsinh học người Hà Lan, làm việc tại một trại giam ở Java,nhận xét thấy phần lớn các tù nhân đều có dấu hiệu bệnh beriberi: suy nhược cơ, tê phù, liệt chân. Qua theo dõi một thờigian dài, ông nhận ra nguyên nhân là tù nhân ăn loại gạo xayxát quá kỹ. Ông dùng loại gạo đó nuôi dưỡng đàn gà của trạigiam và lần đầu tiên gây được bệnh beri beri thực nghiệm.Sau đó, ông quyết định cho cả tù nhân lẫn đàn gà dùng chếđộ ăn gạo chứa nhiều cám thì thấy hết hẳn các dấu hiệu ...