Danh mục

Những chức năng mới trong giao diện cửa sổ của VB.NET (phần I)

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 373.09 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Những chức năng mới trong giao diện cửa sổ của VB.NET (phần I)Xin nhắc lại là .NET Framework cho ta ba cách để user giao diện với chương trình áp dụng, đó là Windows Forms (có khi được gọi tắt là WinForms), Web Forms và Console applications. Lần lượt chúng ta sẽ học qua cả ba thứ nầy. Ngoài ra, kể từ đầu tháng hai 2002, thầy Vũ Năng Hiền sẽ viết một loạt bài riêng về ASP.NET. ASP.NET là hậu thân của ASP (Active Server Pages), cái framework để ta lập trình trên Webserver. Microsoft dùng ASP để...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những chức năng mới trong giao diện cửa sổ của VB.NET (phần I) Bài 8 Những chức năng mới trong giao diện cửa sổ của VB.NET (phần I)Xin nhắc lại là .NET Framework cho ta ba cách để user giao diện với chươngtrình áp dụng, đó là Windows Forms (có khi được gọi tắt là WinForms), WebForms và Console applications. Lần lượt chúng ta sẽ học qua cả ba thứ nầy.Ngoài ra, kể từ đầu tháng hai 2002, thầy Vũ Năng Hiền sẽ viết một loạt bàiriêng về ASP.NET. ASP.NET là hậu thân của ASP (Active Server Pages), cáiframework để ta lập trình trên Webserver. Microsoft dùng ASP để thay thế cgi-Perl (Common Gateway Interface - Practical Extraction and ReportLanguage), một ngôn ngữ lập trình rất thịnh hành trên các Unix-basedWebserver. Sau nầy chính Microsoft mướn người ta port Perl qua WindowsNT.Một chương trình ASP gồm có nhiều trang giống như trang Web (HTML) nhưngbên trong có những mảnh chương trình viết bằng VBScript hay JavaScript (thậtra script nào cũng được, kể cả PerlScript) nằm ở nhiều nơi. Các mảnh Script nầycó thể truy cập cơ sở dữ liệu để sửa đổi hay lấy dữ kiện ra để hiển thị tại chỗ ấy(nơi mảnh Script nằm trong trang ASP) để tạo trang Web kết quả.Trong ASP.NET, tất cả các mảnh chương trình Script ấy được lấy ra riêng, đểchung với nhau và được viết lại dưới dạng ngôn ngữ thuần túy VB.NET hay C#.Phần coding đó được gọi là code behind (code nằm phía sau) và rất giống nhưcác Event Handling Sub ta viết trong VB.NET cho Windows Forms.Trong tương lai, khi bàn đến Web Forms ta chỉ học tổng quát về ASP.NET vànhất là chỉ dùng VB.NET trong các chương trình đơn giản.Sự quan trọng của Windows Forms ?Windows Forms là cách hiển thị màn ảnh tối tân hơn Win32 bình thường. Kỹthuật nằm phía sau Windows Forms trước đây được phát triển cho WindowsFoundation Classes (WFC), để dùng trong Visual J++. Điều nầy cắt nghĩa sự giàdặn và vững chải của một sản phẩm hãy còn ở tình trạng Beta.Khi ta nghe nói đến .NET với những hứa hẹn về ứng dụng trên Internet như WebForms và Web Services, rất dễ cho ta tưởng rằng Microsoft phải cung cấpWindows Forms là cực chẳng đã cho nó trọn vẹn món hàng. Thật ra, WindowsForms là một phần của các base classes của .NET Framework. Cái Namespacedùng cho nó là System.Windows.Forms, một Namespace chứa rất nhiều thứđến đổi hầu như chúng ta sẽ không cần phải dùng trực tiếp các Windows APIvề đồ hoạ (Graphics và Drawings) như trong VB6 nữa.Nhu cầu có những áp dụng phía khách (client-based application) phong phú(rich), linh động (flexible) và nhanh chóng (responsive) sẽ vẫn còn đó. Hiện nay,để tránh phí tổn về cài đặt (deployment) các chương trình, người ta bắt đầu cókhuynh hướng đặt các chương trình chạy trên Webserver, rồi cho user sử dụngchúng qua WebBrowser. Ngoài công chúng thì dùng Internet, trong hãng xưởngthì dùng Intranet (Intranet là Internet chạy trên Local Area Network - mạng địaphương, không liên lạc gì với bên ngoài), tuy nhiên giao diện trên Web khôngphong phú hay nhanh như trên desktop và dĩ nhiên công tác lập trình đòi hỏimột thời gian phát triển lâu hơn.Vì .NET Framework chứa đầy đủ mọi thư viện cần thiết cho chương trình, nênmột khi đã cài đặt .NET Framework trên máy khách rồi ta chỉ cần XCopy đến đónhững folders cần thiết có chứa các tệp (files) chương trình và dữ kiện là đủ.Thực hiện việc nầy trên mạng địa phương (Local Area Network) rất dễ và nhanh,thậm chí ta có thể tự động hóa công tác copy nầy.Trong mô hình lập trình nhiều tầng (multi-tier programming model) mà tagọi là Windows DNA (Distributed Network Application), quá trình xử lýmột công tác được chia ra làm nhiều giai đoạn như: 1. Kiểm chứng các con số user mới điền vào các forms tại máy khách (user interface) 2. Tính toán (business logic) 3. Truy cập cơ sở dữ liệu (database access)Và mỗi giai đoạn nói trên có thể nằm trên một computer khác nhau. Nếu dùngInternet thì giai đoạn 1 nói trên sẽ chạy trong WebBrowser bằng trang Web cóchứa JavaScript routines để kiểm chứng các con số user mới đánh vào. Còn cácgiai đoạn kia có thể chạy trên WebServer. Dĩ nhiên giai đoạn 3 phải chạy trênWebServer, nơi chứa cơ sở dữ kiện..NET cho phép ta lập trình giai đoạn 1 để chạy trong Windows Forms. Còn cácgiai đoạn kia có thể để y nguyên.Như thế, giả dụ như ta có một hệ thống đặt hàng, ta có thể cho các telephoneoperators dùng desktop (Winforms) application với một giao diện được tối ưuhóa, chạy thật nhanh để phục vụ những người đặt hàng bằng điện thoại. Trongkhi đó khách hàng cũng có thể đặt hàng qua Internet WebBrowser như bìnhthường. Cả hai nhóm users nầy dù có giao diện khác nhau nhưng đều xài chungcác tầng business logic và database access.Đây là một ưu điểm rất quan trọng của .NET mà ít ai chú ý. Nếu thiết kế khéo, tacó thể lập trình để dùng chung hầu hết phần mềm trên desktop, distributed(phân tán), Internet và Mobile (Mobile phone, Pocket-PC).Những điểm căn bản của Windows Fo ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: