Những chuyện đời thường quanh ta 2Nghĩa khí “người ở đáy sông" Què cụt vậy sao không đi bán vé số hay bắt chước người ta đi… ăn xin? Lặn giỏi vậy sao không đòi tiền công cao cao một chút?”… Nhiều người thường hỏi anh Hồ Văn Tân, tự “Tân què” như thế khi ròng rã gần 30 nay, anh mang cái chân teo và cây nạng gỗ đi khắp các nhánh sông lặn hụp mò phế liệu, trục vớt ghe tàu, nông sản và cả người chết đuối với sự tận lòng hiếm thấy của một người không...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những chuyện đời thường quanh ta 2 Những chuyện đời thường quanh ta 2Nghĩa khí “người ở đáy sôngQuè cụt vậy sao không đi bán vé số hay bắt chước người ta đi… ăn xin? Lặn giỏivậy sao không đòi tiền công cao cao một chút?”… Nhiều người thường hỏi anhHồ Văn Tân, tự “Tân què” như thế khi ròng rã gần 30 nay, anh mang cái chân teovà cây nạng gỗ đi khắp các nhánh sông lặn hụp mò phế liệu, trục vớt ghe tàu, nôngsản và cả người chết đuối với sự tận lòng hiếm thấy của một người không tủi hờncon Tạo mà ngược đời thay, lại rất có trách nhiệm với cuộc đời này…“Làm vậy giang hồ ai coi!”Trầm mình nửa ngày trong nước, anh mới trục vớt xong chiếc ghe.Tân thường trả lời mọi người bằng một câu gọn lỏn như vậy. Đáp lại những câuhỏi hơi tò mò nhưng đầy tình cảm kiểu nhà quê đó, anh hay đem cái nghĩa khígiang hồ hảo hớn không biết học được ở đâu ra lý giải. Vậy mà dân khu mé sông ai nghe cũng lọt lỗ tai. Bởi nó không hề lên gân màđược bảo chứng bằng những tháng năm dài thằng Tân què cực nhục ở đầu sóngngọn gió với bảy nhánh sông quê họ. Tân sinh ra ở Huế. Mới 3 tuổi, anh bị sốt bại liệt. Thế là thành Tân què. Cả giađình đùm túm nhau lội tuốt vô vùng kinh tế mới xã Hòa Mỹ, huyện Phụng Hiệp,tỉnh Hậu Giang tìm kế sinh nhai. Rồi cha Tân mất. Mấy mẹ con dạt về chợ Phụng Hiệp. Đất lạ qu ê người, thân tậtnguyền côi cút, nhà rách hơn tổ đỉa, ai nhìn vô cũng chắc mẩm thằng Tân què thểnào rồi cũng theo “kiếp cầm ca” (ăn xin) cho mà coi. Ai dè thằng nhỏ “sĩ diện” ác,tự vay tiền, chống nạng lết ra bến xe bán bánh mì, bánh cam. Năm 16 tuổi, một lần đang tha thẩn ngoài bến sông, Tân thấy một ghe khoai mìlật úp. Không chắc mình có lặn được hay không nhưng tiếng la thảm thiết củangười chủ ghe nghe đứt ruột, Tân quăng nạng lao xuống dòng nước xoáy. Lần đó,Tân cứu được cả ghe và người. Anh chuyển luôn sang nghề trục vớt với suy nghĩ:“Bán vé số thì trăm thằng bán được. Bán bánh mì thì ngàn thằng làm được. Cònlặn ngụp cứu người thì ai đủ gan, đủ liều mới làm thôi”.Gửi mạng cho…hà báMột chiếc ghe như thế, với anh vẫn còn là niềm mơ ước. .Đến bây giờ, khi đã hành nghề gần ba chục năm ròng, Tân càng thấm chịu cái lýcủa người xưa. Ông bà nói cấm có sai: “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”, khônggì bạo liệt mà cực nhục bằng nghề ăn bòn của rừng, của sông. Người làm nghề lặnchỉ nắm trong tay 3 phần sống, 7 phần còn lại đem gửi cho hà bá, thủy tề. Sau lần trục vớt ghe khoai một cách ngẫu hứng và nghiệp dư, Tân dọn ra ở hẳnbên mé sông, bắt đầu tính chuyện hành nghề chuyên nghiệp. Anh vay nợ để muachiếc máy koler (món nợ này 3 năm sau anh mới trả hết), liên kết với dân vạn đòtrên bến và mấy tay chuyên mò phế liệu để nhận trục vớt những ghe tàu to, kể cảsà lan. Đồ nghề lặn của anh cực kỳ thô sơ: chỉ có đoạn dây thừng, ống dây dẫn hơidài chừng 40 - 50m và một cái mỏ neo bằng sắt. Khó nhất là trục ghe tàu lớn có trọng tải từ 100 tấn trở lên. Chiếc ghe 100 tấncần 30 thùng phuy làm phao mới đủ sức nổi. Trước tiên, Tân bơm nước vô đầyphuy. Phuy chứa 200 lít nước đồng nghĩa với việc nặng khoảng 200 kg. Sau đóanh dùng dây thừng buộc phuy nước vô đùi rồi chìm dần xuống đáy. Xuống tới đáy, anh phải dùng sức của mình vần phuy nước tới cột vô chiếc ghechìm. Vần hết số thùng phuy xuống đáy, anh nín thở và dùng ống hơi đang ngậmtrong miệng thông vào miệng phuy để truyền hơi tống nước ra, đến khi không nínthở được nữa thì lại rút ống hơi để vô miệng mình. Trầy trật, lâu lắc như thế vớihàng trăm, hàng ngàn lần chuyển ống, anh mới truyền đầy hơi cho ngần ấy thùngphuy. Chiếc phuy trở thành cái phao từ từ nổi lên mặt nước, mang theo xác ghe chìm..Quần quật từ đầu hôm đến gần sáng, lúc trở lên bờ, mặt mũi Tân đỏ bầm, mắtsưng húp lên như bị đánh. Hỏi ra mới biết cặn dầu, nhớt còn sót trong mấy thùngphuy đã trào ra nhuộm thấm cả người anh. Tân lấy sình non đắp lên mặt, lấy khănrằn quấn chặt lại mới chịu nổi sức nóng. Cả tháng trời sau, người anh vẫn đỏ vằnnhư tôm luộc. Ngồi giảng giải cho tôi về các công đoạn lặn của mình, Tân cười ha hả: “Làmnghề này, có cái lặn vì tiền, có cái lặn vì nghĩa. Có khi tui “chơi” chiêu này độclắm. Thấy hai chiếc ghe đụng nhau chìm, tui đòi tiền công thằng ghe lớn thiệt mắcrồi cho lại thằng ghe nhỏ nghèo rớt mùng tơi. Lần lặn vớt chiếc ghe muối của vợchồng ông thương binh cụt chân, tui không lấy tiền công. Mình chống nạng đi rồimà họ vẫn còn ngồi lạy”. 30 năm trời, Tân không nhớ mình đã lặn xuống sông bao nhiêu lần, trục đượcbao nhiêu ghe xuồng, cứu được bao nhiêu người và vớt được bao nhiêu xác chết.Anh cười mà như khóc, nói: “Ngộ, nhiều lúc nghĩ lại thấy sao mạng mình lớnthiệt. Một lần vuột ống dây tưởng chết mà không chết. Một lần cùng lặn với thằngchiến hữu, nó chết bất đắc kỳ tử, công an nghi mình giết nó lúc ở dưới nước, bắtgiam mình 4 ngày. Tới chừng người ta mổ xác mới thấy có tép tỏi nghẹt trongcuống họ ...