Danh mục

Những cơ hội và thách thức của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế

Số trang: 18      Loại file: pdf      Dung lượng: 342.29 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết này chỉ ra những ảnh hưởng tích cực từ hội nhập quốc tế đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, bao gồm: tăng khả năng mở rộng thị phần trên phạm vi quốc tế, cải thiện năng lực cung cấp dịch vụ, tăng tính minh bạch và hiệu quả quản trị rủi ro. Đồng thời, đề cập tới những mặt trái của hội nhập là: giảm thị phần trong nước, nguy cơ bị thôn tính từ định chế tài chính nước ngoài và không đạt mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận từ thị trường nước ngoài.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những cơ hội và thách thức của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ TS. Phan Hồng Mai Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Là một quốc gia tăng trưởng kinh tế dựa trên vốn tín dụng, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giữ vai trò trụ cột trong nền tài chính đất nước, do đó, tất yếu trở thành chủ thể quan trọng, tham gia thúc đẩy cũng như chịu tác động trực tiếp từ hội nhập quốc tế. Bài viết này chỉ ra những ảnh hưởng tích cực từ hội nhập quốc tế đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, bao gồm: tăng khả năng mở rộng thị phần trên phạm vi quốc tế, cải thiện năng lực cung cấp dịch vụ, tăng tính minh bạch và hiệu quả quản trị rủi ro. Đồng thời, đề cập tới những mặt trái của hội nhập là: giảm thị phần trong nước, nguy cơ bị thôn tính từ định chế tài chính nước ngoài và không đạt mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận từ thị trường nước ngoài. Từ khóa: hội nhập quốc tế, BTA, WTO, AEC, TPP, FTA, ngân hàng thương mại 1. Đặt vấn đề Hội nhập quốc tế (international integration) được Deutsh (1957) giải thích là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các cộng đồng an ninh kiểu hợp nhất hoặc đa nguyên. Kể từ năm 1967, khi Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ngành ngân hàng Việt Nam bắt đầu có những thay đổi từng bước theo lộ trình để thích nghi với yêu cầu hội nhập. Đến năm 2015, với việc quốc gia trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và gần đây nhất là ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nhận được nhiều cơ hội để phát triển lên tầm cao mới nhưng với điều kiện vượt qua được những thách thức về cạnh tranh. Những vấn đề nêu trên sẽ được làm rõ trong nội 563 dung bài viết này, từ đó khuyến cáo một số biện pháp để các ngân hàng Việt Nam nâng cao năng lực, thích nghi với điều kiện hội nhập. 2. Hội nhập quốc tế và những cam kết cụ thể trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng của Việt Nam Trải qua 48 năm tích cực đàm phán, tính từ năm 1967 đến năm 2015, Việt Nam đã gia nhập WTO, AEC, đạt thỏa thuận TPP, đồng thời ký kết được 1 hiệp định thương mại song phương (Việt Nam - Hoa Kỳ, BTA) và 11 hiệp định thương mại tự do (FTA) với tư cách là thành viên ASEAN hoặc một bên độc lập với các quốc gia/cộng đồng kinh tế, gồm: cộng đồng kinh tế Đông Nam Á (CEPT/AFTA), Trung Quốc (ACTIG), Hàn Quốc (AKTIG, FTA Việt Nam - Hàn Quốc), Nhật Bản (AJCEP, FTA Việt Nam - Nhật Bản), Úc - Niu Dilaan (ANNZCERFTA), Ấn Độ (AITIG); Chi Lê (FTA Việt Nam - Chi Lê), Liên minh Kinh tế Á - Âu (FTA Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á, Âu), Liên minh châu Âu (EVFTA). Qua đó, nền kinh tế Việt Nam dần mở cửa và gắn kết chặt chẽ hơn với nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. 2.1. Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ Năm 2001, Việt Nam ký hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA) gồm 4 phần: tiếp cận thị trường, quyền sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ và đầu tư. Trong đó, với lĩnh vực ngân hàng cam kết của Việt Nam là: trong vòng 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng của Hoa Kỳ được phép thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần vốn góp của Hoa Kỳ từ 30% đến 49% vốn pháp định của liên doanh. Sau 9 năm, được phép thành lập ngân hàng 100% vốn đầu tư của Hoa Kỳ. 2.2. Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới - WTO Sau gần 12 năm đàm phán, ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào WTO. Theo đó, ngành Ngân hàng sẽ phải tuân thủ những nghĩa vụ quy định trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), bao gồm nghĩa vụ đãi ngộ tối huệ quốc, minh bạch, đãi ngộ quốc gia và tiếp cận thị trường. Trên cơ sở các nguyên tắc chung nêu trên, những cam kết cụ thể có lộ trình của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng như sau (tổng hợp từ Ngân hàng Nhà nước, 2015): - Cam kết mở cửa thị trường, Việt Nam cam kết các loại hình dịch vụ được cung cấp theo như phụ lục về dịch vụ tài chính ngân hàng của GATS, trong đó có 564 những loại hình dịch vụ mới như kinh doanh các sản phẩm phái sinh, quản lý tài sản tài chính… - Cam kết tiếp cận thị trường, bao gồm: (i) Các tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được phép thiết lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức sau: văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài, ngân hàng thương mại liên doanh (trong đó tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài không vượt quá 50% vốn điều lệ); Văn phòng đại diện, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài của công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính. Kể từ ngày 1 tháng 4 năm 2007, ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập. (ii) Trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo tỷ lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh. Từ năm 2011, bắt buộc áp dụng đủ nghĩa vụ đối xử quốc gia. (iii) Việt Nam có thể hạn chế việc tham gia cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại các ngân hàng thương mại quốc doanh của Việt Nam được cổ phần hóa như mức tham gia cổ phần của các ngân hàng Việt Nam. Tổng số cổ phần được phép nắm giữ bởi các thể nhân và pháp nhân nước ngoài tại mỗi ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng, trừ khi luật pháp của Việt Nam có quy định khác hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. (iv) Một chi nhánh ngân h ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: