Cũng giống như phẫu thuật thẩm mỹ, phẫu thuật cận thị cũng có những giới hạn của nó và cũng có nguy cơ khi mổ. Biến chứng nặng như nhiễm trùng, tuy rất hiếm (dưới 1%), nhưng cũng có thể xảy ra. Không cóphương pháp mổ nào đảm bảo 100% sau khi mổ mắt nhìn 10/10 mà không phải đeo thêm kính.Mổ hay không mổ? Bác sĩ phẫu thuật rất đắn đo, thận trọng khi mổ cận thị, vì đôi mắt cận thị khi đeo kính vẫn nhìn được 10/10. Khi mổ thì cũng phải chấp nhận xảy ra...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những điều cần biết khi lựa chọn điều trị khúc xạ bằng phẫu thuật Những điều cần biết khi lựa chọn điều trị khúc xạ bằng phẫu thuật Cũng giống như phẫu thuật thẩm mỹ, phẫu thuật cận thị cũng cónhững giới hạn của nó và cũng có nguy cơ khi mổ. Biến chứng nặng nhưnhiễm trùng, tuy rất hiếm (dưới 1%), nhưng cũng có thể xảy ra. Không cóphương pháp mổ nào đảm bảo 100% sau khi mổ mắt nhìn 10/10 mà khôngphải đeo thêm kính. Mổ hay không mổ? Bác sĩ phẫu thuật rất đắn đo, thận trọng khi mổ cận thị, vì đôi mắt cận thịkhi đeo kính vẫn nhìn được 10/10. Khi mổ thì cũng phải chấp nhận xảy ra biếnchứng với một tỷ lệ nào đó. Vì thế, họ không bao giờ mổ trên mắt đang bị bệnh (như cườm nước, giácmạc hình nón, viêm giác mạc) và đợi đến khi nào độ cận ổn định (vào tuổi 20 trởlên) mới mổ. Vì nếu mắt có bệnh, khi mổ sẽ rất lâu lành sẹo. Những người bị viêm ở mắthay ở người bị bệnh về miễn nhiễm không phải là những ứng cử viên tốt để mổ.Tất cả các phẫu thuật mắt chỉ cần gây tê và không cần nằm viện. Cũng giống như phẫu thuật thẩm mỹ, phẫu thuật cận thị cũng có những giớihạn của nó và cũng có nguy cơ khi mổ. Biến chứng nặng như nhiễm trùng, tuy rấthiếm (dưới 1%), nhưng cũng có thể xảy ra. Không có phương pháp mổ nào đảm bảo 100% sau khi mổ mắt nhìn 10/10mà không phải đeo thêm kính. Kết quả cuối cùng phụ thuộc vào sự kết sẹo, tùytheo từng người và tùy nhiều yếu tố khác không ai biết trước được. Có thể sau khimổ chưa đạt đúng độ cần phải sửa, thì lại phải mổ lần thứ hai. Điều còn phiền hơn nữa là mổ quá độ, tức là mắt đang cận trở thành viễnthị, lúc đó lại phải đeo kính viễn thị. Ngoài ra, nếu mổ không đúng tâm sẽ gây loạnthị không đều rất khó chữa trị. Với những phẫu thuật viên có kinh nghiệm, các kỹ thuật mới ngày càng tiếnbộ cho kết quả ngày càng tốt. Nhưng một trở ngại khác là khi đến tuổi 40 hay 45mắt về già lại phải đeo kính để nhìn được gần. Với kỹ thuật mổ laser hiện nay thì LASEK có ưu thế hơn nhiều, vì khôngphải bất cứ người bị cận thị nào cũng có thể mổ được bằng LASIK như trườnghợp có giác mạc mỏng. Lúc đó, cần phải mổ LASEK hay PRK. Việc chọn phương pháp nào tùy thuộc vào người bệnh, căn cứ trên động cơđi mổ: vì công việc, vì thẩm mỹ, vì nghề nghiệp v.v... Quyết định này có liên quanđến việc suy tính lợi hại, những cái được và những nguy cơ có thể xảy ra của từngtrường hợp, cùng với khả năng tài chính của người bệnh. Thí dụ với người trẻ cận 6 độ thì nên mổ LASEK hay LASIK. Nhưng vớingười chơi thể thao hoạt động nhiều như đánh quần vợt hay quyền Anh thì mổLASEK hơn là LASIK, vì LASIK có thể bị lệch vạt khi bị đụng chạm. Vì vậy, khiquyết định mổ phương pháp nào cần phải thảo luận rất kỹ với phẫu thuật viên đểhiểu rõ từng phương pháp sao cho phù hợp với mình. Đeo kính vẫn là cách lựachọn tốt nhất Điều trị không phải mổ - Dùng kính Người ta chưa biết rõ người phát minh ra kính điều trị khúc xạ đầu tiên làai. Nhưng kính để đeo thuộc nhiều dạng khác nhau được mô tả từ 700 năm nay.Đeo kính vẫn là một phương pháp an toàn và cho thị lực tốt. Khoảng 18% bệnhnhân đeo kính tiếp xúc với loại tiếp xúc mềm ngày một phổ biến hơn. Tuy nhiên,cũng có một số bệnh nhân không thích hợp với kính tiếp xúc do dị ứng, nhất là ởnước ta có bụi bặm nhiều, kính tiếp xúc dễ gây một số biến chứng nguy hiểm nhấtlà loét giác mạc. Vì vậy một số bệnh nhân không dùng được kính tiếp xúc đãmuốn được mổ. Trong thời gian vừa qua có một số các thí nghiệm được nghiêncứu để làm chậm phát triển độ cận như luyện tập mắt, chỉnh hình giác mạc (làmbẹt giác mạc bằng cách đeo kính tiếp xúc cũng có chiều cong thay đổi dần). Cácphương pháp này chỉ cho hiệu quả tạm thời mà không điều chỉnh hay giảm đượcvĩnh viễn độ cận, nhất là độ cận nặng. Các phương pháp dùng dược chất như nhỏthuốc co đồng tử hay ngăn chặn thụ thể beta đã được thử nghiệm, nhưng không cókết quả. Việc nhỏ atropin ở trẻ em cho một kết quả giới hạn để làm giảm độ cậntăng, nhưng lại có nhiều hiệu quả phụ như là nở đồng tử, liệt mi thể và chói mắt. Kính gọng và kính tiếp xúc hiện nay vẫn là phương pháp điều trị tật khúcxạ phổ biến nhất. Nhưng người bệnh bị tật khúc xạ có thêm bệnh về mắt, bệnhtoàn thân, có độ khúc xạ không ổn định và không có đòi hỏi gì về nghề nghiệp thìviệc đeo kính vẫn là cách lựa chọn tốt nhất. Phẫu thuật khúc xạ thích hợp cho cácngười trẻ, có chỉ định rõ ràng, khi đeo kính gọng hay kính tiếp xúc gây phiền toáivề công việc, nghề nghiệp hay thẩm mỹ v.v... ...