Thông tin tài liệu:
Các công ty nước ngoài đã đưa PR vào Việt Nam từ những năm 90 của thế kỉ XX với mong muốn tiết lộ cho doanh nghiệp Việt Nam thấy PR là một “mảnh đất màu mỡ” nên khai thác và đầu tư.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những hạn chế trong hoạt động PR của các doanh nghiệp Việt Nam Những hạn chế trong hoạt độngPR của các doanh nghiệp Việt NamCác công ty nước ngoài đã đưa PR vào Việt Nam từ những năm90 của thế kỉ XX với mong muốn tiết lộ cho doanh nghiệp ViệtNam thấy PR là một “mảnh đất màu mỡ” nên khai thác và đầu tư.Tuy nhiên từ đó đến nay, gần 30 năm trôi qua nhưng các doanhnghiệp chúng ta vẫn chưa biết cách khai thác ngành công nghiệptiềm năng này.Hoạt động PR ở Việt Nam chỉ đơn thuần là “mua đất” trên cáctrang báo nhằm quảng bá và thổi phồng thương hiệu, đi quanhệ với giới báo chí truyền thông... PR nước nhà lẩn quẩn trongmối quan hệ giữa doanh nghiệp với báo chí, nó không được nhìnnhận là một ngành công nghiệp độc lập. Đây là một trong nhưnghạn chế làm cản trở sự phát triển của PR tại Việt Nam, doanhnghiệp chưa gặt hái được trọn vẹn những ích lợi to lớn từ hoạtđộng PR mang lại. Do đó, việc phân tích và chỉ ra những yếu kémcụ thể về công tác này trong các doanh nghiệp có ý nghĩa quantrọng bởi nó sẽ giúp doanh nghiệp nhìn nhận chính xác hơn tầmquan trọng của công cụ quan hệ công đồng. Từ những đánh giákhách quan này, hi vọng các doanh nghiệp Việt Nam sớm tìm racác giải pháp thích hợp để PR được phát triển đúng tầm vóc củanó ỏ Việt Nam.Theo tổng hợp từ những phân tích, thì hoạt động PR trong cácdoanh nghiệp Việt đang tồn tại 4 hạn chế lớn: 1. Doanh nghiệp nhận thức sai lệch về hoạt động PR 2. Doanh nghiệp không dành vốn đầu tư cho PR thích đáng 3. Không có bộ phận nhân sự PR chuyên nghiệp trong các doanh nghiệp Việt 4. Doanh nghiệp trong nước thiếu một hành lang pháp lý để xây dựng và phát triển PRHạn chế thứ nhất: Hầu như doanh nghiệp Việt Nam nhậnthức sai lệch về hoạt động PR Sai lầm phổ biến nhất của các doanh nghiệp Việt là đánh đồng PR với quan hệ báo chí trong khi truyền thông báo chí chỉ là một bộ phận nhỏ thuộc ngành PR. Xuất phát từ suy nghĩ này nên các doanh nghiệp chỉ lo quan tâm đến cánh nhà báo, từ phóng viên, trưởng ban cho đến Tổng biên tập củacác phương tiện truyền thông. Họ tin rằng “Chỉ cần bơm quan hệvới báo chí là êm xuôi”, tức là mọi loại thông tin của công ty (chodù không có giá trị về tin tức báo chí) sẽ được hỗ trợ đăng tảirộng rãi, hoặc công ty sẽ không bị “sờ gáy” đến những “chuyệnchưa tốt”. Nhiều doanh nghiệp thậm chí còn đánh đồng công việccủa PR với các sự vụ lặt vặt như in ấn, tổ chức lễ động thổ, viếtthông cáo báo chí...Có những doanh nghiệp còn nhầm lẫn chorằng PR là quảng cáo....Những quan niệm lệch lạc này chính lànguyên nhân gây nên các sự cố, tạo ra khủng hoảng, gây thiệthại khá nặng nề cho hoạt động kinh doanh và uy tín của doanhnghiệp.Hạn chế thứ 2: PR không được đầu tư thích đáng bởi cácdoanh nghiệp trong nướcThực tế cho thấy rất ít doanh nghiệp Việt Nam sử dụng PRchuyên nghiệp trong xây dựng thương hiệu, mặc dù họ có thể chirất nhiều tiền cho quảng cáo đại trà. Nếu “ghé mắt” qua ngânsách tiếp thị, hay chỉ cần ngân sách cho quảng cáo thôi, thì ngườilàm PR sẽ “thèm thuồng”. Ngay cả ở những công ty đã xem trọngPR thì ngân sách dành cho hoạt động này chỉ bằng 10% quảngcáo, hoặc nhiều khi “nằm thấp thoáng” trong ngân sách tiếp thịchung cho doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp Việt Nam biếtđầu tư thích đáng vào hoạt động PR thì họ có khẳ năng nâng caoảnh hưởng thương hiệu của doanh nghiệp hiệu quả hơn rất nhiềuso với quảng cáo bởi cộng đồng luôn tin tưởng PR hơn quảngcáo.Hạn chế thứ 3: Doanh nghiệp Việt Nam thiếu bộ phận nhânsự PR chuyên nghiệpHầu như các doanh nghiệp Việt Namkhông có riêng bộ phận PR trong tổchức trong khi con số này có thể lênđến hàng chục người trong các côngty nước ngoài. Nếu doanh nghiệp nàocó xem trọng PR lắm thì cũng chỉ có 1 người phụ trách công tácnày trong bộ phận Marketing, thế nhưng thường nhân sự nàykhông qua đào tạo, ít có kinh nghiệm về truyền thông hay PR. Cómột thực trạng khá phổ biến trong các doanh nghiệp Viêt, đặcbiệt là các doanh nghiệp nhà nước, nhân sự PR thường được bổnhiệm cho các bộ phận còn “rảnh việc” trong tổ chức bởi họ quanniệm công việc PR chỉ đơn thuần là quan hệ với giới báo chí,giúp đăng tải thông tin cho công ty. Với nền tảng PR như thế này,khó trách trình độ và tính chuyên nghiệp của đội ngũ đang thựchiện công tác PR tại các công ty trong nước không cao, dù sốnày rất ítHạn chế thứ 4: Doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu một hànhlang pháp lý để phát triển ngành PRBăn khoăn lớn nhất của các doanh nghiệp PR chân chính trongnước là pháp luật Việt Nam chưa có một quy định và nguyên tắccụ thể hướng dãn các doanh nghiệp làm PR. Pháp lệnh quảngcáo Việt Nam khi ra đời dù đã có ý kiến đề xuất nhưng đã không ...