Thông tin tài liệu:
Bạch cầu cấp dòng tủy là một trong những bệnh máu ác tính thường gặp nhất ở người trưởng thành, tỷ lệ mắc của bệnh tăng dần theo tuổi. Hơn một nửa số trường hợp bạch cầu cấp dòng tủy được phát hiện sau 60 tuổi với tuổi mắc bệnh trung bình của các bệnh nhân là 64. Trong những năm gần đây, việc điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng tủy ở người trẻ tuổi đã đạt được những tiến bộ đáng kể, tuy nhiên, hiệu quả điều trị bệnh lý này ở những người bệnh lớn tuổi vẫn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những khó khăn trong điều trị Những khó khăn trong điều trịBạch cầu cấp dòng tủy là một trong những bệnh máu ác tínhthường gặp nhất ở người trưởng thành, tỷ lệ mắc của bệnh tăngdần theo tuổi. Hơn một nửa số trường hợp bạch cầu cấp dòngtủy được phát hiện sau 60 tuổi với tuổi mắc bệnh trung bình củacác bệnh nhân là 64. Trong những năm gần đây, việc điều trịbệnh bạch cầu cấp dòng tủy ở người trẻ tuổi đã đạt được nhữngtiến bộ đáng kể, tuy nhiên, hiệu quả điều trị bệnh lý này ở nhữngngười bệnh lớn tuổi vẫn hết sức khiêm tốn với tiên lượng bệnhcòn rất nghèo nàn.Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tỷ lệ lui bệnh sau hoá trị liệucũng như thời gian ổn định của bệnh đều giảm trong khi tỷ lệ tácdụng phụ tăng lên đáng kể ở những người bệnh lớn tuổi. Tỷ lệlui bệnh sau hoá trị liệu trung bình ở nhóm tuổi này chỉ đạt 20 -50% so với 70 - 80% ở những người trẻ tuổi. Bên cạnh đó, thờigian ổn định bệnh sau điều trị ở nhóm tuổi trên 60 cũng chỉ bằngmột nửa so với khoảng thời gian này ở những người bệnh trẻtuổi (trung bình 12 tháng). Có nhiều nguyên nhân phối hợp làmgiảm hiệu quả điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng tuỷ ở người lớntuổi, bao gồm sự khác biệt về đặc điểm sinh học của bệnh, khảnăng dung nạp với hoá trị liệu liều cao bị giảm sút và tăng nguycơ của các biến chứng nặng như nhiễm trùng, xuất huyết ở nhómtuổi này. Bạch cầu.Hiện nay, y học vẫn chưa tìm được một chiến lược điều trị tốiưu và thống nhất cho bệnh bạch cầu cấp dòng tuỷ ở người lớntuổi do tính phức tạp về đặc điểm lâm sàng và sinh học của bệnhở nhóm tuổi này. Có 3 phương pháp điều trị được sử dụng hiệnnay bao gồm: điều trị hỗ trợ giảm triệu chứng, điều trị hoá trịliệu liều thấp và hoá trị liệu liều chuẩn. Do không có những tiêuchuẩn rõ ràng nên việc lựa chọn phương pháp điều trị thườngphải căn cứ vào nhiều yếu tố như tình trạng thể lực của ngườibệnh, thể bệnh, đặc điểm lâm sàng và sinh học của bệnh, điềukiện kinh tế xã hội, nguyện vọng của người bệnh và gia đình họ,năng lực chăm sóc của cơ sở y tế và trong nhiều trường hợp làcả quan điểm chuyên môn của người thầy thuốc. Các nghiên cứugần đây cho thấy, những bệnh nhân có đủ điều kiện về lâm sàngcho điều trị hoá trị liệu liều chuẩn nhưng nếu có những yếu tốtiên lượng nặng đi kèm (như đặc điểm về di truyền học khôngphù hợp, nồng độ LDH tăng cao) cũng thường đáp ứng khôngtốt với phương pháp điều trị này.Điều trị hỗ trợ: Chiến lược chung là theo dõi chặt chẽ diễn biếncủa bệnh kết hợp với chăm sóc và điều trị các triệu chứng bệnh(như giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu hạt, thiếu máu…), có thểdùng phối hợp một loại hoá trị liệu. Phương pháp này thườngđược áp dụng cho những trường hợp bệnh tiến triển chậm hoặcnhững trường hợp người bệnh quá yếu, có nhiều bệnh kết hợphoặc có nhiều yếu tố tiên lượng nặng.Điều trị hoá trị liệu liều thấp:Mục đích của điều trị là nhằmkéo dài thời gian sống cho người bệnh. Phương pháp này thườngsử dụng phối hợp các hoá chất đường uống và có thể điều trị tạinhà. Theo một số nghiên cứu, phác đồ phối hợp idarubicin,etoposide và thioguanine có thể giúp lui bệnh ở 60% người bệnhvới thời gian sống trung bình 10 tháng. Cytarabine liều thấp (10mg/m2 da mỗi 12 giờ trong 14-21 ngày) cũng là một phươngpháp được lựa chọn với khả năng giúp lui bệnh ở khoảng 32-35% số bệnh nhân. Một thuốc mới là decitabine dùng đơn lẻcũng được chứng minh là có hiệu quả ở khoảng 40% số bệnhnhân. Nói chung, hoá trị liệu liều thấp thường có tỷ lệ lui bệnhthấp hơn so với hoá trị liệu liều chuẩn nhưng mức độ độc tínhcũng thấp hơn đáng kể, do đó, nên lựa chọn cho những bệnhnhân có thể lực yếu và có nhiều yếu tố tiên lượng xấu.Hóa trị liệu liều chuẩn: Hoá trị liệu liều chuẩn ở người lớn tuổicó thể đem lại hiệu quả tương đương so với những bệnh nhân trẻtuổi nhưng gây ra nhiều hơn đáng kể các độc tính ở trong vàngoài tuỷ xương. Một số nghiên cứu cho thấy, việc giảm bớt liềucủa các loại anthracycline trong phác đồ chuẩn làm giảm đángkể khả năng gây lui bệnh nhưng không giúp giảm được độc tínhcủa thuốc. Tỷ lệ gây lui bệnh của phác đồ chuẩn ở người lớntuổi thấp hơn đáng kể so với ở người trẻ tuổi với tỷ lệ sống lâudài không vượt quá 10-15%.Trong những năm gần đây, một số phương pháp đã được ápdụng để cải thiện hiệu quả của các phác đồ chuẩn này, bao gồmviệc sử dụng các hoá chất mới với khả năng chống ung thư tốthơn so với daunorubicin trong phác đồ cổ điển hoặc sử dụng cácyếu tố hỗ trợ phát triển dòng tuỷ. Hoá trị liệu liều chuẩn nênđược lựa chọn sử dụng ở những người bệnh có thể lực còn tốt,không có bệnh phối hợp, có ít yếu tố tiên lượng nặng và phảiđược sự chấp thuận từ phía người bệnh.Vai trò của các yếu tố kích thích sinh máu ở người lớn tuổi:Trong thời gian gần đây, các yếu tố kích thích sinh máu, chủ yếulà G-CSF và GM-CSF đã được sử dụng rộng rãi trong điều trị hỗtrợ bệnh bạch cầu cấp dòng tuỷ ở người lớn tuổi. Nhiều nghiêncứu cho thấy, các yếu tố này giúp rút ngắn thời gian mấ ...