![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Những nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 141.05 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Ung thư cổ tử cung là một trong những ung thư thường gặp, có tần suất thứ hai trong các ung thư của phụ nữ trên thế giới, với khoảng 500.000 ca mắc mới mỗi năm, trong đó khoảng một nửa đã chết. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung và ung thư vú là hai loại có suất độ cao nhất.Cổ tử cung của ai dễ bị ung thư?Ung thư cổ tử cung thường xảy ra từ từ, chậm chạp qua nhiều giai đoạn và mất nhiều năm. Cụ thể, từ cổ tử cung bình thường sẽ chuyển...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những nguyên nhân gây ung thư cổ tử cungNhững nguyên nhân gây ung thư cổ tử cungUng thư cổ tử cung là một trong những ung thưthường gặp, có tần suất thứ hai trong các ung thưcủa phụ nữ trên thế giới, với khoảng 500.000 camắc mới mỗi năm, trong đó khoảng một nửa đãchết. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung và ung thưvú là hai loại có suất độ cao nhất.Cổ tử cung của ai dễ bị ung thư?Ung thư cổ tử cung thường xảy ra từ từ, chậm chạpqua nhiều giai đoạn và mất nhiều năm. Cụ thể, từ cổtử cung bình thường sẽ chuyển qua sản gai, đến dịsản nhẹ hay trung bình. Tiếp đó đến nặng, rồi đếnung thư tại chỗ. Kế nữa là chuyển qua ung thư vi xâmlấn và cuối cùng là ung thư xâm lấn thật sự. Thời gianđể một cổ tử cung bình thường thành ung thư tại chỗmất ít nhất 4 – 5 năm. Tuổi thường mắc bệnh này làkhoảng tầm từ 30 – 59 tuổi, nhiều nhất là ở độ tuổi từ45 – 55 tuổi. Rất hiếm thấy ở phụ nữ dưới 20 tuổi.Phụ nữ độc thân hoặc một vợ một chồng và khônghút thuốc lá cũng ít có nguy cơ bị ung thư cổ tử cung.Mặc dù ở giai đoạn sớm có thể không có triệu chứngnhưng bệnh lại dễ dàng phát hiện được qua thămkhám, xét nghiệm tế bào kết hợp soi cổ tử cung.Có hai loại ung thư cổ tử cung thường gặp nhất làung thư tế bào gai và ung thư tuyến. Bệnh này cũngcó giai đoạn tiền ung thư rất rõ ràng. Ở giai đoạn tiềnung thư, bệnh hầu như không có triệu chứng, chỉ pháthiện được bằng phết tế bào cổ tử cung (còn gọi là xétnghiệm Pap) hoặc bằng soi cổ tử cung. Do đó tất cảphụ nữ đã có hoạt động tình dục nên làm phết tế bàocổ tử cung định kỳ. Khi đã chuyển qua mức độ nặnghơn, bệnh có những biểu hiện: huyết trắng dai dẳng,có mùi hôi, hoặc có vấy một chút máu; xuất huyết âmđạo (có thể xảy ra tự nhiên hoặc sau giao hợp, saulàm việc nặng, sau khi rặn để tiểu tiện, hay sau mãnkinh). Khi bệnh nặng, có chảy dịch nhiều lẫn máu từâm đạo, kèm với đau nhức vùng lưng, vùng chậuhoặc ở chân. Ở giai đoạn muộn, bệnh nhân bị vô niệudo ung thư chèn ép vào hai niệu quản.Phát hiện sớm chữa khỏi 100%Trước khi phát bệnh, sẽ có những bất thường của tếbào cổ tử cung gọi là tình trạng dị sản, phát hiện bằngxét nghiệm Pap. Dị sản nhẹ có thể trở về bìnhthường. Nếu xuất hiện tình trạng dị sản nặng hơnhoặc ung thư ở giai đoạn sớm, vẫn có thể điều trị khỏi100%. Nếu không điều trị, ung thư lan tràn đến cáccơ quan trong vùng chậu. Cơ hội chữa lành bệnh lúcnày sẽ tuỳ vào từng mức độ phát bệnh. Tỷ lệ sốngcòn sau năm năm sau điều trị đối với ung thư giaiđoạn sớm là 50 – 80%, dù được điều trị bằng xạ hayphẫu. Giai đoạn trễ chỉ còn 10 – 30%, nhưng có thểtăng lên đến 30 – 50% nếu bệnh nhân thuộc nhómphẫu thuật đủ rộng.Giai đoạn tiền ung thư hoặc ung thư tại chỗ: điều trịbằng cách khoét chóp cổ tử cung bằng dao, bằngvòng đốt điện, bằng laser, hoặc phẫu thuật lạnh vớinitrogen lỏng (thường gọi là đốt lạnh). Các phươngpháp này có ưu điểm là thời gian điều trị ngắn, chi phíthấp, ít biến chứng, lành bệnh nhanh. Hơn nữa, cổ tửcung còn giữ được nên bệnh nhân vẫn còn khả năngmang thai. Trường hợp đang có thai, có thể chờ đếnsau sinh sẽ điều trị. Nếu vùng ung thư đã lan đếnkênh cổ tử cung thì khoét chóp để lấy hết được môbệnh. Các trường hợp ung thư lan tràn nhiều hơn,phương pháp điều trị sẽ tuỳ thuộc mức độ lan tràn,tuổi bệnh nhân, thường là phác đồ phối hợp giữa xạtrị (xạ trị trong, xạ trị ngoài) với phẫu thuật Wertheim-Meig (bao gồm cắt tử cung toàn phần, âm đạo, môchung quanh tử cung, hai phần phụ (hai vòi trứng vàhai buồng trứng) kèm nạo hạch chậu hai bên).Khi ung thư đã tiến triển xa: lan tràn đến các cơ quanvùng chậu, bệnh nhân sẽ được xạ trị. Đôi khi, cầnphải phẫu thuật cắt bỏ rộng gồm bàng quang, âmđạo, cổ tử cung, tử cung, trực tràng.Có thể phòng ngừa bằng xét nghiệm PapMặc dù hiện đã có vắcxin giúp phòng tránh được mộtloại nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung thường xảyra nhất (vắcxin phòng ngừa nhiễm HPV), thì cáchphòng ngừa tốt nhất vẫn là nên làm xét nghiệm tếbào học cổ tử cung định kỳ, tức là đi xét nghiệm Pap.Việc chẩn đoán tế bào này có giá trị rất cao để pháthiện những tổn thương tiền ung thư, kết hợp với soicổ tử cung. Nếu thấy có nghi ngờ, bác sĩ sẽ làm sinhthiết, nạo kênh cổ tử cung hoặc khoét chóp cổ tửcung để xác định bệnh chính xác.Về thời điểm để thực hiện xét nghiệm Pap, tất cả phụnữ nên bắt đầu làm xét nghiệm Pap vào khoảng banăm sau lần giao hợp đầu tiên. Sau đó, lặp lại mỗinăm. Bắt đầu từ tuổi 30, nếu ba lần xét nghiệm Papliên tiếp đều bình thường thì có thể lặp lại mỗi hainăm sau đó. Tuy nhiên, nên lặp lại mỗi năm trongnhững trường hợp sau: có nhiễm HPV, nhiễm HIV, cónhận ghép tạng, có hoá trị (vì ung thư khác), có uốngthuốc nhóm steroid lâu ngày. Phụ nữ trên 70 tuổi cóthể ngưng không làm xét nghiệm Pap nữa nếu trongmười năm (từ năm 60 đến 70 tuổi) không có lần nàoxét nghiệm Pap bất thường. Phụ nữ đã được cắt tửcung vì bệnh khác, chẳng hạn u xơ tử cung, nhưngcòn chừa lại cổ tử cung thì cũng cần được làm xétnghiệm Pap th ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những nguyên nhân gây ung thư cổ tử cungNhững nguyên nhân gây ung thư cổ tử cungUng thư cổ tử cung là một trong những ung thưthường gặp, có tần suất thứ hai trong các ung thưcủa phụ nữ trên thế giới, với khoảng 500.000 camắc mới mỗi năm, trong đó khoảng một nửa đãchết. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung và ung thưvú là hai loại có suất độ cao nhất.Cổ tử cung của ai dễ bị ung thư?Ung thư cổ tử cung thường xảy ra từ từ, chậm chạpqua nhiều giai đoạn và mất nhiều năm. Cụ thể, từ cổtử cung bình thường sẽ chuyển qua sản gai, đến dịsản nhẹ hay trung bình. Tiếp đó đến nặng, rồi đếnung thư tại chỗ. Kế nữa là chuyển qua ung thư vi xâmlấn và cuối cùng là ung thư xâm lấn thật sự. Thời gianđể một cổ tử cung bình thường thành ung thư tại chỗmất ít nhất 4 – 5 năm. Tuổi thường mắc bệnh này làkhoảng tầm từ 30 – 59 tuổi, nhiều nhất là ở độ tuổi từ45 – 55 tuổi. Rất hiếm thấy ở phụ nữ dưới 20 tuổi.Phụ nữ độc thân hoặc một vợ một chồng và khônghút thuốc lá cũng ít có nguy cơ bị ung thư cổ tử cung.Mặc dù ở giai đoạn sớm có thể không có triệu chứngnhưng bệnh lại dễ dàng phát hiện được qua thămkhám, xét nghiệm tế bào kết hợp soi cổ tử cung.Có hai loại ung thư cổ tử cung thường gặp nhất làung thư tế bào gai và ung thư tuyến. Bệnh này cũngcó giai đoạn tiền ung thư rất rõ ràng. Ở giai đoạn tiềnung thư, bệnh hầu như không có triệu chứng, chỉ pháthiện được bằng phết tế bào cổ tử cung (còn gọi là xétnghiệm Pap) hoặc bằng soi cổ tử cung. Do đó tất cảphụ nữ đã có hoạt động tình dục nên làm phết tế bàocổ tử cung định kỳ. Khi đã chuyển qua mức độ nặnghơn, bệnh có những biểu hiện: huyết trắng dai dẳng,có mùi hôi, hoặc có vấy một chút máu; xuất huyết âmđạo (có thể xảy ra tự nhiên hoặc sau giao hợp, saulàm việc nặng, sau khi rặn để tiểu tiện, hay sau mãnkinh). Khi bệnh nặng, có chảy dịch nhiều lẫn máu từâm đạo, kèm với đau nhức vùng lưng, vùng chậuhoặc ở chân. Ở giai đoạn muộn, bệnh nhân bị vô niệudo ung thư chèn ép vào hai niệu quản.Phát hiện sớm chữa khỏi 100%Trước khi phát bệnh, sẽ có những bất thường của tếbào cổ tử cung gọi là tình trạng dị sản, phát hiện bằngxét nghiệm Pap. Dị sản nhẹ có thể trở về bìnhthường. Nếu xuất hiện tình trạng dị sản nặng hơnhoặc ung thư ở giai đoạn sớm, vẫn có thể điều trị khỏi100%. Nếu không điều trị, ung thư lan tràn đến cáccơ quan trong vùng chậu. Cơ hội chữa lành bệnh lúcnày sẽ tuỳ vào từng mức độ phát bệnh. Tỷ lệ sốngcòn sau năm năm sau điều trị đối với ung thư giaiđoạn sớm là 50 – 80%, dù được điều trị bằng xạ hayphẫu. Giai đoạn trễ chỉ còn 10 – 30%, nhưng có thểtăng lên đến 30 – 50% nếu bệnh nhân thuộc nhómphẫu thuật đủ rộng.Giai đoạn tiền ung thư hoặc ung thư tại chỗ: điều trịbằng cách khoét chóp cổ tử cung bằng dao, bằngvòng đốt điện, bằng laser, hoặc phẫu thuật lạnh vớinitrogen lỏng (thường gọi là đốt lạnh). Các phươngpháp này có ưu điểm là thời gian điều trị ngắn, chi phíthấp, ít biến chứng, lành bệnh nhanh. Hơn nữa, cổ tửcung còn giữ được nên bệnh nhân vẫn còn khả năngmang thai. Trường hợp đang có thai, có thể chờ đếnsau sinh sẽ điều trị. Nếu vùng ung thư đã lan đếnkênh cổ tử cung thì khoét chóp để lấy hết được môbệnh. Các trường hợp ung thư lan tràn nhiều hơn,phương pháp điều trị sẽ tuỳ thuộc mức độ lan tràn,tuổi bệnh nhân, thường là phác đồ phối hợp giữa xạtrị (xạ trị trong, xạ trị ngoài) với phẫu thuật Wertheim-Meig (bao gồm cắt tử cung toàn phần, âm đạo, môchung quanh tử cung, hai phần phụ (hai vòi trứng vàhai buồng trứng) kèm nạo hạch chậu hai bên).Khi ung thư đã tiến triển xa: lan tràn đến các cơ quanvùng chậu, bệnh nhân sẽ được xạ trị. Đôi khi, cầnphải phẫu thuật cắt bỏ rộng gồm bàng quang, âmđạo, cổ tử cung, tử cung, trực tràng.Có thể phòng ngừa bằng xét nghiệm PapMặc dù hiện đã có vắcxin giúp phòng tránh được mộtloại nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung thường xảyra nhất (vắcxin phòng ngừa nhiễm HPV), thì cáchphòng ngừa tốt nhất vẫn là nên làm xét nghiệm tếbào học cổ tử cung định kỳ, tức là đi xét nghiệm Pap.Việc chẩn đoán tế bào này có giá trị rất cao để pháthiện những tổn thương tiền ung thư, kết hợp với soicổ tử cung. Nếu thấy có nghi ngờ, bác sĩ sẽ làm sinhthiết, nạo kênh cổ tử cung hoặc khoét chóp cổ tửcung để xác định bệnh chính xác.Về thời điểm để thực hiện xét nghiệm Pap, tất cả phụnữ nên bắt đầu làm xét nghiệm Pap vào khoảng banăm sau lần giao hợp đầu tiên. Sau đó, lặp lại mỗinăm. Bắt đầu từ tuổi 30, nếu ba lần xét nghiệm Papliên tiếp đều bình thường thì có thể lặp lại mỗi hainăm sau đó. Tuy nhiên, nên lặp lại mỗi năm trongnhững trường hợp sau: có nhiễm HPV, nhiễm HIV, cónhận ghép tạng, có hoá trị (vì ung thư khác), có uốngthuốc nhóm steroid lâu ngày. Phụ nữ trên 70 tuổi cóthể ngưng không làm xét nghiệm Pap nữa nếu trongmười năm (từ năm 60 đến 70 tuổi) không có lần nàoxét nghiệm Pap bất thường. Phụ nữ đã được cắt tửcung vì bệnh khác, chẳng hạn u xơ tử cung, nhưngcòn chừa lại cổ tử cung thì cũng cần được làm xétnghiệm Pap th ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
phụ nữ sức khỏe phụ nữ sức khỏe đời sống bệnh phụ nữ bệnh thường gặp ở phụ nữ bệnh phụ khoa ung thư cổ tử cungTài liệu liên quan:
-
8 trang 268 1 0
-
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 235 0 0 -
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 190 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 113 0 0 -
6 trang 104 0 0
-
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 104 0 0 -
Tài liệu 5 bước bạn nên thực hành để tránh bị sâu răng
7 trang 99 0 0 -
Ebook Cẩm nang chăm sóc sức khỏe phụ nữ: Phần 2
63 trang 55 0 0 -
Nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ từ 3-6 tuổi: Phần 1
85 trang 53 0 0 -
Ebook Cẩm nang chăm sóc sức khỏe phụ nữ: Phần 1
339 trang 49 0 0