Những Phê Phán về Chủ Nghĩa Tư Bản
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 164.33 KB
Lượt xem: 17
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Karl Heinrich Marx (1818-1883) được sinh ra và lớn lên tại Đức, có trình độ đại học, vì những bài viết mang tính chính trị của mình mà ông phải sống tha phương, ban đầu là ở Đức, sau đó là Pháp, Bỉ, sau cùng ông định cư tại Anh và trở thành nhà phê bình chủ nghĩa tư bản và kinh tế sắc sảo và có ảnh nhất mọi thời đại.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những Phê Phán về Chủ Nghĩa Tư Bản Những Phê Phán về Chủ Nghĩa Tư Bản-PHẦN1 Karl Heinrich Marx (1818-1883) được sinh ra và lớn lên tại Đức, có trình độ đại học, vì những bài viết mang tính chính trị của mình mà ông phải sống tha phương, ban đầu là ở Đức, sau đó là Pháp, Bỉ, sau cùng ông định cư tại Anh và trở thành nhà phê bình chủ nghĩa tư bản và kinh tế sắc sảo và có ảnh nhất mọi thời đại. Khi còn là sinh viên của trường đại học Đức, ông học về triết học tự biện (đặc biệt với Kant và Hegel), khi sống tha phương tại Pháp thì ông nghiên cứu về thuyết chính trị của những nhà xã hội chủ nghĩa Pháp, còn khi ở Anh ông lại nghiên cứu về lịch sử của Anh và kinh tế chính trị của các nước thuộc địa. Khi còn ở Đức (ông đã nghiên cứu và viết về vấn đề tội phạm hoá cuộc sống thực tại của những người nông dân truyền thống trong việc lấy gỗ trong rừng) thì ông đã đam mê ngành 'kinh tế học', nhưng ông chỉ thực sự đi sâu vào nghiên cứu ngành này vào những năm 1840 sau khi gặp gỡ Frederick Engels - người mà sau này trở thành người bạn đồng hành và cùng ông sát cánh trong những bài viết và hoạt động chính trị. Marx với vấn đề Chủ Nghĩa Tư Bản và những tác phẩm của ông Từ những nghiên cứu của mình về những nhà kinh tế học cổ điển, Marx đã rút ra kết luận rằng những tác gia như Smith, Ricardo đã hoàn toàn đúng khi dùng 'thuyết giá trị lao động' để phân tích chủ nghĩa tư bản bởi vì họ đã nhận thức được một loại trật tự xã hội mà trong đó tầng lớp lao động nắm vai trò chủ đạo trong sản xuất của cải vật chất và trong cả toàn bộ tổ chức xã hội. Cũng giống như Smith, ít ra thì Marx đã nhận thấy rằng chính sự khắc nghiệt của công việc áp đặt lên công nhân do nhu cầu phân chia lao động sản xuất đang gia tăng đã huỷ hoại đi những người công nhân. Nhưng trái ngược với Smith và những người xem tư bản chủ nghĩa như một tổ chức cần thiết của xã hội với đầy ấp công việc (Owen cũng vậy), Marx dựa vào thuyết Hegel để phát triển những bài phê bình về công việc dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thêm sâu sắc. Những bài phê bình đó đều nằm trong tập Bản Thảo Về Triết Học Và Kinh Tế Học được viết năm 1844. Trong phần 'Ly Gián Lao Động[11]', Marx phát triển một lý thuyết về những tình trạng mà trong đó người lao động bị 'xa lánh' và bị huỷ hoại bởi thái độ cá nhân và những mối quan hệ xã hội bởi vì bị ràng buộc trong một xã hội tư bản, người công nhân không thể kiểm soát được những gì mình làm. Phân tích này muốn nói rằng cách duy nhất để công việc không còn bị xa lánh nửa là loại bỏ đặc tính 'bị ép buộc' của nó để công nhân có thể kiểm soát được quá trình làm việc của họ cũng như làm cho tiến trình này phục vụ nhu cầu của họ. Trong khi Marx có thể nhận ra rằng công việc luôn bị áp đặt cho những tầng lớp xã hội, cũng giống như người La Mã buộc nô lệ của họ phải làm việc cho họ, thì ông lại lập luận thêm, duy nhất với chế độ tư bản chủ nghĩa, sự áp chế công việc như thế diễn ra không có giới hạn và vô tận. Vào những năm 1860, khi Marx viết tác phẩm chính của mình - cuốn Tư Bản[12], trong đó thông qua lịch sử quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, ông không chỉ chứng minh rằng những nhà tư bản đã lợi dụng công việc như một phương tiện để giúp họ trở thành kẻ thống trị trong xã hội, mà ông còn chỉ ra rằng một khi họ đã trở thành giai cấp thống trị thì giai cấp công nhân sẽ tự tập hợp với nhau đầu tiên là để chống lại việc áp đặt công việc của giai cấp tư sản và sau đó là để đạt được mục tiêu giảm giờ làm và giành lấy tự do từ những đặt công việc nặng nhọc được áp đặt lên họ suốt cả một đời. Marx lập luận rằng nếu như công việc giữ vai trò quan trọng trong xã hội tư bản, thì hệ thống xã hội đang phổ biến này không chỉ đơn thuần đòi hỏi áp đặt một số công việc để thoả mãn một số nhu cầu nào đó thôi mà còn mở rộng việc áp đặt này vô tận. Cũng như những nhà kinh tế chính trị cổ điển, ông nhận thấy rằng phương tiện để mở rộng áp đặt công việc một cách vô tận như thế chính là dùng lợi nhuận đầu tư ép buộc con người phải làm việc. (Ở đây ông gợi lại quan điểm của Godwin cho rằng công nhân không nên cảm thấy biết ơn đối với những người đã tạo ra công việc cho họ mà phải cảm thấy phẩn nộ khi họ càng bị lệ thuộc). Nhưng không giống như những nhà kinh tế cổ điển khác, đối với họ lợi nhuận vẫn còn là một ẩn số (cả Smith vẫn không thể giải thích được và Ricardo chỉ cho rằng đó là phần dư ra đang giảm dần) thì Marx đã phát triển lý thuyết về lợi nhuận bằng cách sử dụng 'thuyết giá trị lao động[13]' của riêng mình. Marx, từ Giá Tri đến Giá Trị Thặng Dư Mặc dù Marx có cùng quan điểm với những nhà kinh tế học cổ điển về thuyết giá trị lao động, nhưng đối với vấn đề áp đặt công việc của chủ nghĩa tư bản thì ông lại đưa ra thêm vào một số quan điểm trong thuyết giá trị lao động của mình và từ đó hướng ông đến thuyết lợi nhuận. Một số điểm trọng tâm của thuyết này: 1. Chủ nghĩa tư bản tổ chức xã hội bằng cách thúc ép con người sản xuất hàng hoá, sau đó bán hàng hoá để kiếm lợi nhuận, và dùng số lợi nhuận đó để tái sản xuất và áp đặt thêm nhiều công việc. 2. Cần hiểu giá trị theo thuật ngữ 'lao động', tức là sức lao động nói chung, bởi vì đối với những nhà tư bản chuyên thiết lập xã hội bằng cách áp đặt công việc, thì giá trị chỉ là vấn đề thứ yếu so với loại công việc mà họ áp đặt và loại hàng hoá được tạo ra từ công việc đó. Do vậy, 'giá trị' hàng hoá có thể được đo bằng lượng thời gian lao động trung bình để làm ra nó. Và vì thế tiền và mệnh giá được sử dụng để thể hiện giá trị đó mặc dù trong thị trường mệnh giá của nó không luôn bằng với giá trị thực của nó. Một cách lý giải khác, để thấy rằng để đo lường giá trị của hàng hoá bằng số thời gian lao động trung bình cần thiết chính là do 'giá trị' tư bản của hàng hoá là nó đã mang đến những phương tiện để ép buộc con người làm việc và do vậy tạo cơ hội cho chủ nghĩa tư bản p ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những Phê Phán về Chủ Nghĩa Tư Bản Những Phê Phán về Chủ Nghĩa Tư Bản-PHẦN1 Karl Heinrich Marx (1818-1883) được sinh ra và lớn lên tại Đức, có trình độ đại học, vì những bài viết mang tính chính trị của mình mà ông phải sống tha phương, ban đầu là ở Đức, sau đó là Pháp, Bỉ, sau cùng ông định cư tại Anh và trở thành nhà phê bình chủ nghĩa tư bản và kinh tế sắc sảo và có ảnh nhất mọi thời đại. Khi còn là sinh viên của trường đại học Đức, ông học về triết học tự biện (đặc biệt với Kant và Hegel), khi sống tha phương tại Pháp thì ông nghiên cứu về thuyết chính trị của những nhà xã hội chủ nghĩa Pháp, còn khi ở Anh ông lại nghiên cứu về lịch sử của Anh và kinh tế chính trị của các nước thuộc địa. Khi còn ở Đức (ông đã nghiên cứu và viết về vấn đề tội phạm hoá cuộc sống thực tại của những người nông dân truyền thống trong việc lấy gỗ trong rừng) thì ông đã đam mê ngành 'kinh tế học', nhưng ông chỉ thực sự đi sâu vào nghiên cứu ngành này vào những năm 1840 sau khi gặp gỡ Frederick Engels - người mà sau này trở thành người bạn đồng hành và cùng ông sát cánh trong những bài viết và hoạt động chính trị. Marx với vấn đề Chủ Nghĩa Tư Bản và những tác phẩm của ông Từ những nghiên cứu của mình về những nhà kinh tế học cổ điển, Marx đã rút ra kết luận rằng những tác gia như Smith, Ricardo đã hoàn toàn đúng khi dùng 'thuyết giá trị lao động' để phân tích chủ nghĩa tư bản bởi vì họ đã nhận thức được một loại trật tự xã hội mà trong đó tầng lớp lao động nắm vai trò chủ đạo trong sản xuất của cải vật chất và trong cả toàn bộ tổ chức xã hội. Cũng giống như Smith, ít ra thì Marx đã nhận thấy rằng chính sự khắc nghiệt của công việc áp đặt lên công nhân do nhu cầu phân chia lao động sản xuất đang gia tăng đã huỷ hoại đi những người công nhân. Nhưng trái ngược với Smith và những người xem tư bản chủ nghĩa như một tổ chức cần thiết của xã hội với đầy ấp công việc (Owen cũng vậy), Marx dựa vào thuyết Hegel để phát triển những bài phê bình về công việc dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thêm sâu sắc. Những bài phê bình đó đều nằm trong tập Bản Thảo Về Triết Học Và Kinh Tế Học được viết năm 1844. Trong phần 'Ly Gián Lao Động[11]', Marx phát triển một lý thuyết về những tình trạng mà trong đó người lao động bị 'xa lánh' và bị huỷ hoại bởi thái độ cá nhân và những mối quan hệ xã hội bởi vì bị ràng buộc trong một xã hội tư bản, người công nhân không thể kiểm soát được những gì mình làm. Phân tích này muốn nói rằng cách duy nhất để công việc không còn bị xa lánh nửa là loại bỏ đặc tính 'bị ép buộc' của nó để công nhân có thể kiểm soát được quá trình làm việc của họ cũng như làm cho tiến trình này phục vụ nhu cầu của họ. Trong khi Marx có thể nhận ra rằng công việc luôn bị áp đặt cho những tầng lớp xã hội, cũng giống như người La Mã buộc nô lệ của họ phải làm việc cho họ, thì ông lại lập luận thêm, duy nhất với chế độ tư bản chủ nghĩa, sự áp chế công việc như thế diễn ra không có giới hạn và vô tận. Vào những năm 1860, khi Marx viết tác phẩm chính của mình - cuốn Tư Bản[12], trong đó thông qua lịch sử quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, ông không chỉ chứng minh rằng những nhà tư bản đã lợi dụng công việc như một phương tiện để giúp họ trở thành kẻ thống trị trong xã hội, mà ông còn chỉ ra rằng một khi họ đã trở thành giai cấp thống trị thì giai cấp công nhân sẽ tự tập hợp với nhau đầu tiên là để chống lại việc áp đặt công việc của giai cấp tư sản và sau đó là để đạt được mục tiêu giảm giờ làm và giành lấy tự do từ những đặt công việc nặng nhọc được áp đặt lên họ suốt cả một đời. Marx lập luận rằng nếu như công việc giữ vai trò quan trọng trong xã hội tư bản, thì hệ thống xã hội đang phổ biến này không chỉ đơn thuần đòi hỏi áp đặt một số công việc để thoả mãn một số nhu cầu nào đó thôi mà còn mở rộng việc áp đặt này vô tận. Cũng như những nhà kinh tế chính trị cổ điển, ông nhận thấy rằng phương tiện để mở rộng áp đặt công việc một cách vô tận như thế chính là dùng lợi nhuận đầu tư ép buộc con người phải làm việc. (Ở đây ông gợi lại quan điểm của Godwin cho rằng công nhân không nên cảm thấy biết ơn đối với những người đã tạo ra công việc cho họ mà phải cảm thấy phẩn nộ khi họ càng bị lệ thuộc). Nhưng không giống như những nhà kinh tế cổ điển khác, đối với họ lợi nhuận vẫn còn là một ẩn số (cả Smith vẫn không thể giải thích được và Ricardo chỉ cho rằng đó là phần dư ra đang giảm dần) thì Marx đã phát triển lý thuyết về lợi nhuận bằng cách sử dụng 'thuyết giá trị lao động[13]' của riêng mình. Marx, từ Giá Tri đến Giá Trị Thặng Dư Mặc dù Marx có cùng quan điểm với những nhà kinh tế học cổ điển về thuyết giá trị lao động, nhưng đối với vấn đề áp đặt công việc của chủ nghĩa tư bản thì ông lại đưa ra thêm vào một số quan điểm trong thuyết giá trị lao động của mình và từ đó hướng ông đến thuyết lợi nhuận. Một số điểm trọng tâm của thuyết này: 1. Chủ nghĩa tư bản tổ chức xã hội bằng cách thúc ép con người sản xuất hàng hoá, sau đó bán hàng hoá để kiếm lợi nhuận, và dùng số lợi nhuận đó để tái sản xuất và áp đặt thêm nhiều công việc. 2. Cần hiểu giá trị theo thuật ngữ 'lao động', tức là sức lao động nói chung, bởi vì đối với những nhà tư bản chuyên thiết lập xã hội bằng cách áp đặt công việc, thì giá trị chỉ là vấn đề thứ yếu so với loại công việc mà họ áp đặt và loại hàng hoá được tạo ra từ công việc đó. Do vậy, 'giá trị' hàng hoá có thể được đo bằng lượng thời gian lao động trung bình để làm ra nó. Và vì thế tiền và mệnh giá được sử dụng để thể hiện giá trị đó mặc dù trong thị trường mệnh giá của nó không luôn bằng với giá trị thực của nó. Một cách lý giải khác, để thấy rằng để đo lường giá trị của hàng hoá bằng số thời gian lao động trung bình cần thiết chính là do 'giá trị' tư bản của hàng hoá là nó đã mang đến những phương tiện để ép buộc con người làm việc và do vậy tạo cơ hội cho chủ nghĩa tư bản p ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
đề cương môn kinh tế học bài giảng kinh tế học kinh tế vĩ mô kinh tế vi mô khái niệm kinh tế họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - TS. Lê Bảo Lâm
144 trang 717 21 0 -
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 571 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu nguyên lý kinh tế vi mô (Principles of Microeconomics): Phần 2
292 trang 538 0 0 -
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 325 0 0 -
38 trang 234 0 0
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 233 1 0 -
Bài giảng Kinh tế vi mô - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
92 trang 222 0 0 -
Bài giảng Đánh giá kinh tế y tế: Phần 2 - Nguyễn Quỳnh Anh
42 trang 204 0 0 -
Bài giảng môn Nguyên lý kinh tế vĩ mô: Chương 2 - Lưu Thị Phượng
51 trang 178 0 0 -
229 trang 177 0 0