NHỮNG TRANH LUẬN CỔ ĐIỂN VỀ VIỆC BẢO HỘ MẬU DỊCH
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 302.29 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong chương này, chúng ta sẽ thảo luận một vài tranh luận về việc bảo hộ mậu dịch trong nhiều thập kỷ qua và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng đến những nhà hoạch định chính sách. Những tranh luận này có thể được phân biệt bởi tên gọi khác nhau, đó là Chủ nghĩa bảo dịc mới, hoặc chính sách thương mại chiến lược.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHỮNG TRANH LUẬN CỔ ĐIỂN VỀ VIỆC BẢO HỘ MẬU DỊCHCHƯƠNG 3: NHỮNG TRANH LUẬN CỔ ĐIỂN VỀ VIỆC BẢO HỘ MẬU DỊCH I. Tranh luận về bảo hộ mậu dịch của ngành công nghiệp non trẻ II. Tranh luận về tỷ số thương mại trong bảo hộ mậu dịchIII. Thuế quan làm giảm thất nghiệp chungIV. Thuế quan làm gia tăng việc làm trong một ngành V. Thuế quan sẽ bù đấp lại việc bán phá giá của nước ngoàiVI. Thuế quan chống lại trợ cấp nước ngoàiVII. Thuế quan làm cải tiến cán cân thương mại Trong chương này, chúng ta sẽ thảo luận một vài tranh luận về việc bảo hộ mậudịch trong nhiều thập kỷ qua và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng đến những nhà hoạch địnhchính sách. Những tranh luận này có thể được phân biệt bởi tên gọi khác nhau, đó là Chủnghĩa bảo dịc mới, hoặc chính sách thương mại chiến lược. Trước tiên chúng ta sẽ trình bày lý do tại sao bảo hộ mậu dịch nên được đặt ra, kếđó chúng ta sẽ đánh giá giá trị của nó. Bước thứ nhất, chúng ta sẽ đặt ra câu hỏi là mộtcông cụ chính sách nào đó có thể làm cho một việc làm nào đó có tốt hơn không từ việctạo ra mục tiêu của chính sách thương mại hạn chế. Vấn đề được đặt ra ở đây là: với mụctiêu đưa ra thì nguồn lợi và chi phí của chính sách được đưa ra sẽ như thế nào so vớichính sách lựa chọn khác. Sau cùng, luôn luôn nên nghĩ là mục tiêu của một chính sách là tiêu chí quantrọng. Một số tranh luận có thể được đề nghị từ mục tiêu chung của quốc gia, có nghĩa làquốc gia sẽ kỳ vọng vào những nguồn lợi đạt được từ một chính sách nào đó. Nhữngtranh luận khác có thề được đưa ra từ mục tiêu của một ngành đơn lẻ nào đó, có nghĩa lànguồn lợi được mang lại từ một chính sách nào đó chỉ đem lại lợi ích cho một ngành nàođó thôi, không quan tâm đến phúc lợi chung của quốc gia.I/ TRANH LUẬN VỀ BẢO HỘ MẬU DỊCH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆPNON TRẺ Nói chung những nhà kinh tế đồng ý rằng tranh luận cho việc bảo hộ mậu dịch cógiá trị từ quan điểm tạo ra phúc lợi cho toàn thế giới. Tranh luận của ngành công nghiệpnon trẻ dựa trên sự tồn tại của kinh tế qui mô trong một ngành hoặc một xí nghiệp.Giả sử rằng, sự tăng trưởng của một ngành mới trong một quốc gia bị cản trở bởi nhữnghàng hóa nhập khẩu có chi phí thấp. Sản xuất ngành này ở nước ngoài có thể gặp phải rủiro và ngành sản xuất này trong nước chủ nhà sẽ có được một sự khởi xưởng trễ. Nếu bảohộ mậu dịch có thể tạm thời được đưa ra cho ngành này trong nước chủ nhà, thì tranhluận có thể đưa ra là những xí nghiệp trong ngành này sẽ có khả năng nhận ra được kinhtế qui mô hiệu quả. Những kinh tế qui mô trong nước này sẽ xuất hiện bởi vì những xínghiệp bây giờ sẽ sản xuất một lượng lớn sản phẩm, có nghĩa là những nhà sản xuất trongnước chủ nhà sẽ dịch chuyển theo hướng đi xuống trên đường chi phí bình quân trong dàihạn. Cuối cùng, chi phí trên mỗi đơn vị sẽ giảm xuống đến mức độ là ngành sản xuấttrong nước trở thành nhà xuất khẩu. Tại thời điểm này, việc bảo hộ có thể được tháo gỡbởi vì nó không còn cần thiết nữa. (Một đặc điểm khác là ngành sản xuất này cũng có thểtạo ra kinh tế ngoại biên bởi vì thí dụ việc mở rộng sản xuất của nó sẽ dẫn đến việc huấnluyện cho lao động đạt được năng suất cao hơn. Ðiều này sẽ có lợi cho cả nước chủ nhàvà thế giới. Ngành này của nước chủ nhà có một lợi thế so sánh trong dài hạn, nhưngkhông thể nhận ra trong ngắn hạn nếu việc bảo hộ tạm thời được đưa ra. Những ngườitiêu dùng của nước chủ nhà sẽ được yêu cầu tài trợ cho việc mở rộng ngành trong dàihạn, nhưng họ sẽ được trả lại nhiều hơn khi kinh tế qui mô được nhận ra. Trong thực tế, tranh luận của ngành công nghiệp non trẻ được đưa ra thường hơnở các nước đang phát triển. Những nước đang phát triển thường đề xuất sự tranh luậntrong ngữ cảnh của một chương trình thay thế nhập khẩu.Tranh luận của ngành côngnghiệp non trẻ là một biến dạng của kiểu tranh luận cổ điển, nhưng nó được đánh giágiống nhau. Mặc dầu những nhà kinh tế nói chung đồng ý rằng những tranh luận này có ýnghĩa về mặt lý thuyết, nhưng không phải ngành non trẻ nào cũng nên được bảo vệ. Khóakhăn ở đây là việc nhận ra ngành nào sẽ có khả năng trở tạo ra những sản phẩm có chiphí thấp. Nếu như ngành được bảo hộ không có khả năng trên, thì nước chủ nhà cũng nhưthế giới có thể sẽ phải gánh nặng hơn và làm cho việc sử dụng nguồn lực trở nên kémhiệu quả hơn. Bên cạnh việc xác định đúng ngành non trẻ cần được bảo hộ, những nhà kinh tếcũng nên tự hỏi là hình thức thuế quan hay hình thức khác có phải là chính sách có liênquan hay không, thậm chí ngành này đã được xác định là ngành non trẻ thực sự. Thí dụnhư trường hợp có thể xảy ra là một trợ cấp cho ngành được bảo hộ bởi chính phủ củanước chủ nhà là ưu tiên việc sử dụng thuế quan. Trong khi đó, một trợ cấp sẽ có một chiphí phúc lợi thấp hơn so với một thuế quan. Việc trợ cấp cũng sẽ được đánh giá lại mỗinăm khi chính phủ ra lệnh chi tiêu, do vậy nguồn lợi và chi phí sẽ được phân tích thườngxuyên ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHỮNG TRANH LUẬN CỔ ĐIỂN VỀ VIỆC BẢO HỘ MẬU DỊCHCHƯƠNG 3: NHỮNG TRANH LUẬN CỔ ĐIỂN VỀ VIỆC BẢO HỘ MẬU DỊCH I. Tranh luận về bảo hộ mậu dịch của ngành công nghiệp non trẻ II. Tranh luận về tỷ số thương mại trong bảo hộ mậu dịchIII. Thuế quan làm giảm thất nghiệp chungIV. Thuế quan làm gia tăng việc làm trong một ngành V. Thuế quan sẽ bù đấp lại việc bán phá giá của nước ngoàiVI. Thuế quan chống lại trợ cấp nước ngoàiVII. Thuế quan làm cải tiến cán cân thương mại Trong chương này, chúng ta sẽ thảo luận một vài tranh luận về việc bảo hộ mậudịch trong nhiều thập kỷ qua và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng đến những nhà hoạch địnhchính sách. Những tranh luận này có thể được phân biệt bởi tên gọi khác nhau, đó là Chủnghĩa bảo dịc mới, hoặc chính sách thương mại chiến lược. Trước tiên chúng ta sẽ trình bày lý do tại sao bảo hộ mậu dịch nên được đặt ra, kếđó chúng ta sẽ đánh giá giá trị của nó. Bước thứ nhất, chúng ta sẽ đặt ra câu hỏi là mộtcông cụ chính sách nào đó có thể làm cho một việc làm nào đó có tốt hơn không từ việctạo ra mục tiêu của chính sách thương mại hạn chế. Vấn đề được đặt ra ở đây là: với mụctiêu đưa ra thì nguồn lợi và chi phí của chính sách được đưa ra sẽ như thế nào so vớichính sách lựa chọn khác. Sau cùng, luôn luôn nên nghĩ là mục tiêu của một chính sách là tiêu chí quantrọng. Một số tranh luận có thể được đề nghị từ mục tiêu chung của quốc gia, có nghĩa làquốc gia sẽ kỳ vọng vào những nguồn lợi đạt được từ một chính sách nào đó. Nhữngtranh luận khác có thề được đưa ra từ mục tiêu của một ngành đơn lẻ nào đó, có nghĩa lànguồn lợi được mang lại từ một chính sách nào đó chỉ đem lại lợi ích cho một ngành nàođó thôi, không quan tâm đến phúc lợi chung của quốc gia.I/ TRANH LUẬN VỀ BẢO HỘ MẬU DỊCH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆPNON TRẺ Nói chung những nhà kinh tế đồng ý rằng tranh luận cho việc bảo hộ mậu dịch cógiá trị từ quan điểm tạo ra phúc lợi cho toàn thế giới. Tranh luận của ngành công nghiệpnon trẻ dựa trên sự tồn tại của kinh tế qui mô trong một ngành hoặc một xí nghiệp.Giả sử rằng, sự tăng trưởng của một ngành mới trong một quốc gia bị cản trở bởi nhữnghàng hóa nhập khẩu có chi phí thấp. Sản xuất ngành này ở nước ngoài có thể gặp phải rủiro và ngành sản xuất này trong nước chủ nhà sẽ có được một sự khởi xưởng trễ. Nếu bảohộ mậu dịch có thể tạm thời được đưa ra cho ngành này trong nước chủ nhà, thì tranhluận có thể đưa ra là những xí nghiệp trong ngành này sẽ có khả năng nhận ra được kinhtế qui mô hiệu quả. Những kinh tế qui mô trong nước này sẽ xuất hiện bởi vì những xínghiệp bây giờ sẽ sản xuất một lượng lớn sản phẩm, có nghĩa là những nhà sản xuất trongnước chủ nhà sẽ dịch chuyển theo hướng đi xuống trên đường chi phí bình quân trong dàihạn. Cuối cùng, chi phí trên mỗi đơn vị sẽ giảm xuống đến mức độ là ngành sản xuấttrong nước trở thành nhà xuất khẩu. Tại thời điểm này, việc bảo hộ có thể được tháo gỡbởi vì nó không còn cần thiết nữa. (Một đặc điểm khác là ngành sản xuất này cũng có thểtạo ra kinh tế ngoại biên bởi vì thí dụ việc mở rộng sản xuất của nó sẽ dẫn đến việc huấnluyện cho lao động đạt được năng suất cao hơn. Ðiều này sẽ có lợi cho cả nước chủ nhàvà thế giới. Ngành này của nước chủ nhà có một lợi thế so sánh trong dài hạn, nhưngkhông thể nhận ra trong ngắn hạn nếu việc bảo hộ tạm thời được đưa ra. Những ngườitiêu dùng của nước chủ nhà sẽ được yêu cầu tài trợ cho việc mở rộng ngành trong dàihạn, nhưng họ sẽ được trả lại nhiều hơn khi kinh tế qui mô được nhận ra. Trong thực tế, tranh luận của ngành công nghiệp non trẻ được đưa ra thường hơnở các nước đang phát triển. Những nước đang phát triển thường đề xuất sự tranh luậntrong ngữ cảnh của một chương trình thay thế nhập khẩu.Tranh luận của ngành côngnghiệp non trẻ là một biến dạng của kiểu tranh luận cổ điển, nhưng nó được đánh giágiống nhau. Mặc dầu những nhà kinh tế nói chung đồng ý rằng những tranh luận này có ýnghĩa về mặt lý thuyết, nhưng không phải ngành non trẻ nào cũng nên được bảo vệ. Khóakhăn ở đây là việc nhận ra ngành nào sẽ có khả năng trở tạo ra những sản phẩm có chiphí thấp. Nếu như ngành được bảo hộ không có khả năng trên, thì nước chủ nhà cũng nhưthế giới có thể sẽ phải gánh nặng hơn và làm cho việc sử dụng nguồn lực trở nên kémhiệu quả hơn. Bên cạnh việc xác định đúng ngành non trẻ cần được bảo hộ, những nhà kinh tếcũng nên tự hỏi là hình thức thuế quan hay hình thức khác có phải là chính sách có liênquan hay không, thậm chí ngành này đã được xác định là ngành non trẻ thực sự. Thí dụnhư trường hợp có thể xảy ra là một trợ cấp cho ngành được bảo hộ bởi chính phủ củanước chủ nhà là ưu tiên việc sử dụng thuế quan. Trong khi đó, một trợ cấp sẽ có một chiphí phúc lợi thấp hơn so với một thuế quan. Việc trợ cấp cũng sẽ được đánh giá lại mỗinăm khi chính phủ ra lệnh chi tiêu, do vậy nguồn lợi và chi phí sẽ được phân tích thườngxuyên ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Giáo dục đào tạo giáo trình cao đẳng đại học kinh tế vĩ mô kinh doanh thương mại cán cân thương mạiGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - TS. Lê Bảo Lâm
144 trang 724 21 0 -
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 575 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu nguyên lý kinh tế vi mô (Principles of Microeconomics): Phần 2
292 trang 545 0 0 -
11 trang 425 0 0
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản trị chất lượng dịch vụ khách sạn Mường Thanh Xa La
136 trang 361 5 0 -
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 328 0 0 -
100 trang 327 1 0
-
38 trang 243 0 0
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 241 1 0 -
Bài giảng Kinh tế vi mô - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
92 trang 230 0 0