Núi Bài Thơ
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 191.16 KB
Lượt xem: 1
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Núi Bài Thơ là ngọn núi đá vôi cao 201m nằm ở trung tâm TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, một trong những núi cao nhất vùng biển Cửa Lục. Ba mặt của núi giáp với khu dân cư, phía Tây và phía Nam nằm sát với vịnh Hạ Long.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Núi Bài Thơ Núi Bài ThơNúi Bài Thơ là ngọn núi đá vôi cao 201m nằm ở trung tâm TP Hạ Long, tỉnh QuảngNinh, một trong những núi cao nhất vùng biển Cửa Lục. Ba mặt của núi giáp vớikhu dân cư, phía Tây và phía Nam nằm sát với vịnh Hạ Long.Núi bài thơNúi Bài Thơ nổi tiếng về cảnh quan thiên nhiên, văn hóa và giá trị lịch sử.Núi Bài Thơ trước đây có tên là Truyền Đăng hay còn gọi là Rọi Đèn. Xuất xứ của têngọi này do trước đây ngọn núi là điểm tiền tiêu thông báo những thông tin quan trọng vềan ninh, quốc phòng. Những người lính trạm gác trên núi khi có báo động thì đốt lửa báotin và vào buổi đêm thắp các ngọn đèn như một ngọn hải đăng báo hiệu.Nhưng núi Bài Thơ được biết đến nhiều nhất là do những bài thơ được khắc trên váchnúi. Trên núi còn lưu dấu tích một số bài thơ chữ Hán và chữ quốc ngữ. Bài thơ đầu tiênvà nổi tiếng nhất là tác phẩm của vua Lê Thánh Tông, chủ soái của tao đàn Thập nhị báttú. Mùa xuân, tháng hai năm Quang Thuận tứ 9 (1468) vua Lê Thánh Tông đem quân điduyệt trên sông Bạch Đằng và tuần du ở vùng An Bang, nhân dịp này vua đã qua khu vựcnúi Truyền Đăng. Trước cảnh biển xanh, núi cao, một vùng thiên nhiên tươi đẹp nhà vualàm một bài thơ và cho người khắc vào núi. Bút tích của nhà vua bao gồm một văn bảnthơ với 56 chữ Hán – một bài thơ thất ngôn bát cú, cùng với lời đề tựa. Từ đó trở đi núimang tên núi Đề Thơ và sau đó là núi Bài Thơ. Bài thơ của vua Lê Thánh Tông đượckhắc trong một khung vuông cạnh dài 150cm, cách chân núi 6m ở sườn núi phía nam.Bài thơ của vua Lê Thánh Tông như sau.Nhận nước trăm sông sóng cuộn đầyNúi bày cờ thế, biếc liền mâyXưa theo kẻ khác luôn bền chíGiờ đã tung hoành một chớp tayĐế Chủ điệp trùng quân hổ mạnhHải Đông đã tắt khói lang bayTrời Nam muôn thuở non sông vữngYển vũ tu văn dựng Nước này.Núi bài thơSau vua Thánh Tông có nhiều tao nhân mặc khách qua lại và đề thơ vào núi. Một bài thơcủa An Đô Vương Trịnh Cương viết năm 1729, họa lại bài thơ của vua Lê Thánh Tôngnhân một chuyến tuần du vùng Đông Bắc. Tuần phủ Quảng Yên Nguyễn Cẩn viết mộtbài (1910), anh em quan Án sát Vũ Tuân và Vũ Đại mỗi người hai bài, vợ Vũ Đại là bàĐào Thị Thoa có một bài thơ quốc ngữ. Ngoài ra, trên vách núi còn hai bài thơ nữa viếtvào khoảng những năm 40 của thế kỷ 20. Lời tựa và nội dung của các bài thơ chủ yếu vềcảnh đẹp thiên nhiên, hào khí thời Trần, thịnh trị thời Lê.Núi Bài Thơ còn là một di tích lịch sử ghi dấu những mốc son của quân và dân thành phốHạ Long trong thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Tối ngày30/4/1930, đồng chí Đào Văn Tuất dũng cảm cắm lá cờ Đảng trên đỉnh núi Bài Thơ ởmỏm Mỏ Quạ. Sáng ngày 1/5/1930, nhân dân Hòn Gai được chứng kiến lá cờ đỏ búaliềm tung bay trên núi Bài Thơ, tượng trưng cho tinh thần quật khởi, quyết đấu tranhchống kẻ thù của công nhân và lao động khu mỏ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, núiBài Thơ cũng ghi nhiều dấu ấn lịch sử. Trên núi đặt loa truyền thanh lớn để phát hiệulệnh phòng không và một trạm quan sát máy bay địch từ xa. Một số hang động trong núicũng được sử dụng để làm nơi sản xuất, cư trú, trạm y tế, trạm thông tin bưu điện trongthời kỳ đế quốc Mỹ đánh phá.Núi Bài Thơ có nhiều vách đá dựng đứng, nhiều hang và các hườm đá. Các hang trongnúi được gọi từ hang số 1 đến hang số 6, mỗi hang có độ rộng dài khác nhau. Hang số 1có trần cao và rộng, nền hang bằng phẳng, hang số 2 dài và hẹp, hang số 3 có hai ngăn,ngăn ngoài rộng, ngăn trong dài và hẹp, hang số 6 là một căn cứ địa của tự vệ Hồng Gaithời chống Mỹ. Các hang ở núi Bài Thơ đã được sử dụng như những nơi để tạm trú sảnxuất, trạm y tế trong thời gian chiến tranh chống Mỹ. Trên núi có nhiều loài thực vật,trong đó một số loài có hoa và dáng đẹp như phong lan, si đá, thanh trúc. Đứng trên núiBài Thơ có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Hạ Long và cả vùng biển xanh biếc với chichít những núi đá vôi.Dưới chân núi Bài Thơ là chùa Long Tiên ở phía Bắc – ngôi chùa lớn nhất và đẹp nhấtcủa thành phố Hạ Long, đền thờ Đông Hải Đại vương Trần Quốc Nghiễn ở phía Tây (đềnĐức Ông). Những di tích này cùng với núi Bài Thơ tạo nên một cụm di tích thiên nhiên,lịch sử văn hóa quan trọng và hấp dẫn của thành phố và thắng cảnh Hạ Long. Núi BàiThơ trở thành biểu tượng của thành phố Hạ Long, niềm tự hào của người dân Hạ Long vàQuảng Ninh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Núi Bài Thơ Núi Bài ThơNúi Bài Thơ là ngọn núi đá vôi cao 201m nằm ở trung tâm TP Hạ Long, tỉnh QuảngNinh, một trong những núi cao nhất vùng biển Cửa Lục. Ba mặt của núi giáp vớikhu dân cư, phía Tây và phía Nam nằm sát với vịnh Hạ Long.Núi bài thơNúi Bài Thơ nổi tiếng về cảnh quan thiên nhiên, văn hóa và giá trị lịch sử.Núi Bài Thơ trước đây có tên là Truyền Đăng hay còn gọi là Rọi Đèn. Xuất xứ của têngọi này do trước đây ngọn núi là điểm tiền tiêu thông báo những thông tin quan trọng vềan ninh, quốc phòng. Những người lính trạm gác trên núi khi có báo động thì đốt lửa báotin và vào buổi đêm thắp các ngọn đèn như một ngọn hải đăng báo hiệu.Nhưng núi Bài Thơ được biết đến nhiều nhất là do những bài thơ được khắc trên váchnúi. Trên núi còn lưu dấu tích một số bài thơ chữ Hán và chữ quốc ngữ. Bài thơ đầu tiênvà nổi tiếng nhất là tác phẩm của vua Lê Thánh Tông, chủ soái của tao đàn Thập nhị báttú. Mùa xuân, tháng hai năm Quang Thuận tứ 9 (1468) vua Lê Thánh Tông đem quân điduyệt trên sông Bạch Đằng và tuần du ở vùng An Bang, nhân dịp này vua đã qua khu vựcnúi Truyền Đăng. Trước cảnh biển xanh, núi cao, một vùng thiên nhiên tươi đẹp nhà vualàm một bài thơ và cho người khắc vào núi. Bút tích của nhà vua bao gồm một văn bảnthơ với 56 chữ Hán – một bài thơ thất ngôn bát cú, cùng với lời đề tựa. Từ đó trở đi núimang tên núi Đề Thơ và sau đó là núi Bài Thơ. Bài thơ của vua Lê Thánh Tông đượckhắc trong một khung vuông cạnh dài 150cm, cách chân núi 6m ở sườn núi phía nam.Bài thơ của vua Lê Thánh Tông như sau.Nhận nước trăm sông sóng cuộn đầyNúi bày cờ thế, biếc liền mâyXưa theo kẻ khác luôn bền chíGiờ đã tung hoành một chớp tayĐế Chủ điệp trùng quân hổ mạnhHải Đông đã tắt khói lang bayTrời Nam muôn thuở non sông vữngYển vũ tu văn dựng Nước này.Núi bài thơSau vua Thánh Tông có nhiều tao nhân mặc khách qua lại và đề thơ vào núi. Một bài thơcủa An Đô Vương Trịnh Cương viết năm 1729, họa lại bài thơ của vua Lê Thánh Tôngnhân một chuyến tuần du vùng Đông Bắc. Tuần phủ Quảng Yên Nguyễn Cẩn viết mộtbài (1910), anh em quan Án sát Vũ Tuân và Vũ Đại mỗi người hai bài, vợ Vũ Đại là bàĐào Thị Thoa có một bài thơ quốc ngữ. Ngoài ra, trên vách núi còn hai bài thơ nữa viếtvào khoảng những năm 40 của thế kỷ 20. Lời tựa và nội dung của các bài thơ chủ yếu vềcảnh đẹp thiên nhiên, hào khí thời Trần, thịnh trị thời Lê.Núi Bài Thơ còn là một di tích lịch sử ghi dấu những mốc son của quân và dân thành phốHạ Long trong thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Tối ngày30/4/1930, đồng chí Đào Văn Tuất dũng cảm cắm lá cờ Đảng trên đỉnh núi Bài Thơ ởmỏm Mỏ Quạ. Sáng ngày 1/5/1930, nhân dân Hòn Gai được chứng kiến lá cờ đỏ búaliềm tung bay trên núi Bài Thơ, tượng trưng cho tinh thần quật khởi, quyết đấu tranhchống kẻ thù của công nhân và lao động khu mỏ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, núiBài Thơ cũng ghi nhiều dấu ấn lịch sử. Trên núi đặt loa truyền thanh lớn để phát hiệulệnh phòng không và một trạm quan sát máy bay địch từ xa. Một số hang động trong núicũng được sử dụng để làm nơi sản xuất, cư trú, trạm y tế, trạm thông tin bưu điện trongthời kỳ đế quốc Mỹ đánh phá.Núi Bài Thơ có nhiều vách đá dựng đứng, nhiều hang và các hườm đá. Các hang trongnúi được gọi từ hang số 1 đến hang số 6, mỗi hang có độ rộng dài khác nhau. Hang số 1có trần cao và rộng, nền hang bằng phẳng, hang số 2 dài và hẹp, hang số 3 có hai ngăn,ngăn ngoài rộng, ngăn trong dài và hẹp, hang số 6 là một căn cứ địa của tự vệ Hồng Gaithời chống Mỹ. Các hang ở núi Bài Thơ đã được sử dụng như những nơi để tạm trú sảnxuất, trạm y tế trong thời gian chiến tranh chống Mỹ. Trên núi có nhiều loài thực vật,trong đó một số loài có hoa và dáng đẹp như phong lan, si đá, thanh trúc. Đứng trên núiBài Thơ có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Hạ Long và cả vùng biển xanh biếc với chichít những núi đá vôi.Dưới chân núi Bài Thơ là chùa Long Tiên ở phía Bắc – ngôi chùa lớn nhất và đẹp nhấtcủa thành phố Hạ Long, đền thờ Đông Hải Đại vương Trần Quốc Nghiễn ở phía Tây (đềnĐức Ông). Những di tích này cùng với núi Bài Thơ tạo nên một cụm di tích thiên nhiên,lịch sử văn hóa quan trọng và hấp dẫn của thành phố và thắng cảnh Hạ Long. Núi BàiThơ trở thành biểu tượng của thành phố Hạ Long, niềm tự hào của người dân Hạ Long vàQuảng Ninh.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tham quan Kênh Gà du lịch Ninh Bình địa danh việt nam địa lý việt nam địa danh lịch sử du lịch việt nam địa danh nổi tiếngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tìm hiểu địa danh du lịch Việt Nam: Phần 1
144 trang 327 2 0 -
10 trang 91 0 0
-
Tiểu luận: Quảng bá phát triển du lịch Tri Tôn hiện nay - thực trạng và giải pháp
29 trang 85 0 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực: Phần 1
73 trang 58 0 0 -
Du lịch Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức
6 trang 56 0 0 -
15 trang 56 0 0
-
Tìm hiểu về du lịch Việt Nam qua 26 di sản thế giới: Phần 1
128 trang 47 0 0 -
Du lịch và cẩm nang hướng dẫn (Tập 1): Phần 1
305 trang 46 0 0 -
5 trang 45 0 0
-
Tìm hiểu địa danh du lịch Việt Nam: Phần 2
176 trang 43 0 0