Tôi xin kể bạn nghe chuyện một người đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của người Mỹ nhất là về luật pháp. Ông là một thiên tài của Hoa Kỳ. Người đó là vị thẩm phán Olive Wendell Holmes. Ông thọ chín mươi bốn tuổi và biết hầu hết những nhân vật quan trọng ở Hoa Kỳ trong một thế kỷ nay. Khi ông còn nhỏ, thân phụ ông thường bảo các con rằng trong bữa cơm ai nói được câu nào hóm hỉnh nhất sẽ được thưởng thêm mứt. Ông Wendell rất thích mứt nên tập ăn nói...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Oliver Wendell Holmes
40 Gương Thành Công
Oliver Wendell Holmes
Tôi xin kể bạn nghe chuyện một người đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng
của người Mỹ nhất là về luật pháp. Ông là một thiên tài của Hoa Kỳ.
Người đó là vị thẩm phán Olive Wendell Holmes. Ông thọ chín
mươi bốn tuổi và biết hầu hết những nhân vật quan trọng ở Hoa Kỳ trong
một thế kỷ nay.
Khi ông còn nhỏ, thân phụ ông thường bảo các con rằng trong bữa
cơm ai nói được câu nào hóm hỉnh nhất sẽ được thưởng thêm mứt. Ông
Wendell rất thích mứt nên tập ăn nói từ hồi đó (...)
Khi ông bắt đầu học luật năm 1857, cụ không bằng lòng vì thời đó
người ta còn khinh môn luật. Cụ năn nỉ ông:
- Con nghe ba, đừng theo nghề đó, nó không đưa tới đâu cả.
Nhưng ông tin chắc rằng học luật có thể thành một người có danh
vọng. Và ông nghiến ngấu sách luật như nghiến ngấu tiểu thuyết, trang nào
cũng thấy say mê.
Năm 1861 ông sắp thi ở trường Harvard thì nội chiến bùng nổ.
Ông liệng cả sách vào tủ, đăng lính. Ông chiến đấu anh dũng, bị thương ba
lần. Một viên đạn xuyên qua gần đụng tim ông, đến nỗi một quân y thấy
người ta khiêng ông trong một chiếc cáng, la lên.
- Đừng phí công với người đó nữa. Hắn chết rồi!
Chết rồi ư? Sự thực thì ông còn đương tuổi lớn. Ông còn lớn thêm
bốn, năm phân nữa mới đủ một thước chín và còn sống để mà giúp cho nước
được một việc quan trọng nhất là cứu cho tổng thống Lincoln thoát nạn năm
1864.
Trong khi đại tướng Grant đương chỉ huy ở Richmod, một đội
quân phương Nam, do Jubal Early cầm đầu, đâm một mũi nhọn lên phía
Bắc, tới Alexandrie ở Virginie, cách Hoa Thịnh Đốn không đầy bốn chục
cây số.
Quân phương Bắc tính chặn họ lại ở For Stevens. Abraham
Lincoln chưa ra chiến trường lần nào, cũng tới đó coi hai bên giao chiến.
Ông đứng trên một nóc nhà, gần chỗ tay vịn khi súng bắt đầu nổ. Hình thù
vạm vỡ của ông, mà ai cũng nhận ra được, ở ngay trước họng súng địch.
Một vị tướng thưa với ông:
- Thưa ngài Tổng Thống, ngài nên lùi lại phía sau thì hơn.
Lincoln không để ý đến lời đó. Cách đó hai thước, ở chỗ tay vịn,
một người ló đầu ra, lảo đảo rồi lăn ra chết. Lại gần hơn nữa, một người
khác cũng ngã gục.
Thình lình ở sau lưng Lincoln có tiếng la lên:
- Đồ điên, xuống đi. Kiếm chỗ núp đi.
Lincoln nhảy một bước, quay lại: đại tá Holmes nhìn ông, giận dữ,
mắt nảy lửa.
Lincoln mỉm cười, nói:
- Đại tá ăn nói ôn tồn lắm!
Rồi ông nhún vai, nhận là phải, kiếm chỗ núp.
Tin đó lan ra, nhiều người khen Wendell là anh hùng, nhưng ông
ngắt lời ngay, giọng hơi xẵng:
- Đừng bảo tôi là anh hùng, tôi đã làm phận sự một người lính,
chứ có gì khác thường đâu.
Chiến tranh xong ông về nhà, tiếp tục học như trước. Ông biết
rằng học luật không kiếm được tiền: hồi đó có câu tục ngữ: Luật sư năm
đầu kiếm đủ tiền khắc bảng đồng ở cửa phòng việc là may.
Olive Wendell Holmes không được như vậy nữa mà mãi ba mươi
tuổi ông mới có một phòng việc riêng cho mình. Tôi không nói ngoa. Năm
đó khi ông cưới bà Fannie Dixwell, một bạn gái từ hồi nhỏ, ông không có
một xu dính túi. Hai ông bà phải ở trong một phòng ở từng thứ tư, trong nhà
thân phụ ông, rồi phải ki cóp một năm để có tiền ra ở riêng. Họ mướn được
hai phòng tồi tàn trên một tiệm bào chế và chỉ có mỗi một cái lò để nấu bếp.
Đó, một thiên tài mà ba chục tuổi còn long đong như vậy.
Rảnh quá, vì vắng khách, ông bổ túc rồi tái bản một bộ luật, bộ
Phê bình luật Mỹ. Công việc đó vĩ đại, phải nghiên cứu, phê bình hằng ngàn
trường hợp và không biết bao bản án của các tòa. Làm việc mấy năm mà vẫn
chưa xong, ông đã hơi lo ngại, vì ông nghĩ rằng trong nghề của ông, trễ lắm
là bốn chục tuổi phải có danh vọng mới được. Mà năm đó ông đã ba mươi
chín. Một đồng hồ gõ mười hai tiếng, ông hỏi bà:
- Mình có tin rằng anh thành công không?
Bà đương khâu, đáp:
- Chắc chắn là mình thành công. Em biết vậy.
Ông thành công thật. Bộ sách đó mà ngày nay ai cũng coi là một
công trình bất hủ về luật Mỹ, được in xong năm ngày trước khi ông đúng
bốn chục tuổi. Hai ông bà cụng ly với nhau để ăn mừng.
Trường đại học Harvard rất thích công trình của ông, tặng ông một
ghế giáo sư luật khoa, lương bốn mươi lăm ngàn Mỹ kim một năm. Ông
sung sướng vì vinh dự đó, nhưng còn hỏi ý kiến bạn thân là George Shattuck
đã. Ông này khuyên:
- Anh nên nắm lấy cơ hội đi, nhưng buộc họ một điều kiện là nếu
anh được bổ làm thẩm phán ở tòa Massachusetts thì anh có quyền hủy giao
kèo liền.
Ông cho bạn quá lo xa, nhưng cũng nghe theo.
Không đầy ba tháng sau, ông Shattuck chạy lại trường Harvard lôi
Holmes ra khỏi lớp học, hổn hển bảo:
- Có tin mừng lớn. Có một chỗ trống ở ...