Ổn định nguồn thu từ thuế khi Việt Nam tham gia hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 433.25 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này đưa ra các giải pháp tăng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn vừa qua, tuy nhiên với cách tiếp cận ở góc độ phân tích thực trạng nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế và chỉ ra những tác động của TTP đến nguồn thu từ thuế, từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm ổn định nguồn thu từ thuế của NSNN khi Việt Nam gia nhập TPP. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ổn định nguồn thu từ thuế khi Việt Nam tham gia hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP ỔN ĐỊNH NGUỒN THU TỪ THUẾ KHI VIỆT NAM THAM GIA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG TPP STABILIZING THE STATE BUDGET REVENUE FROM TAXES WHEN VIETNAM JOINS TRANS – PACIFIC PARTNERSHIP AGREEMENT (THE TPP) TS. Nguyễn Thị Minh Hạnh Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Việt Nam khởi động việc tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ tháng 3 năm 2010, cho đến nay đã trải qua 19 phiên chính thức và nhiều phiên giữa kỳ. TPP được kỳ vọng là mô hình mới về hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi tối đa cho thương mại, đầu tư giữa các nước thành viên. TPP được nhận định sẽ có tác động lớn đến kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế, tới từng doanh nghiệp và người tiêu dùng. Theo đó, áp lực chi tiêu công tăng lên trong khi áp lực giảm thuế theo cam kết khi gia nhập TPP và giảm thuế trong điều tiết sản xuất kinh doanh và tiêu dùng càng làm cho sự mất cân đối thu chi ngân sách càng trở nên căng thẳng. Đã có một số bài viết đưa ra các giải pháp tăng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn vừa qua, tuy nhiên với cách tiếp cận ở góc độ phân tích thực trạng nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế và chỉ ra những tác động của TTP đến nguồn thu từ thuế, từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm ổn định nguồn thu từ thuế của NSNN khi Việt Nam gia nhập TPP. Từ khóa: nguồn thu, ngân sách nhà nước, thuế,, TPP Abstract Vietnam has been preparing to participate in the Trans-Pacific Partnership Agreement (TPP) since March 2010. So far, Vietnam has undergone 19 formal sessions and a variety of mid-term sessions. TPP is expected to be the new model of regional economic cooperation, creating maximum favorable trade and investment among member countries. TPP has been identified to have a major impact on macroeconomics, economic growth, each business and consumers. Accordingly, the pressure on public spending is growing up while increasing pressure on tax reduction under the commitment to joining the TPP and under business - production and consumption generation makes a great imbalance between revenue and spendings. There have been a number of articles offering solutions to increase the state revenues from taxes in the recent period. However, due to the approach in terms of situational analysis of state budget revenue from taxes and the author indicates the impact of the TTP on tax revenues; on that basis, some solutions are offered to stabilize revenue from taxes for the state budget when Vietnam joins the TPP. Key words: revenues, state budget, taxes, the TPP. 183 1. Thực trạng nguồn thu từ thuế trước khi Việt Nam gia nhập TTP Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu cân đối và các khoản thu bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Thu cân đối ngân sách nhà nước, theo phương thức thống kê thu ngân sách của Việt Nam thì nguồn thu từ dầu thô, quyền sử dụng đất, từ bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước cũng được tính chung vào nguồn thu ngân sách, trong đó riêng thu từ dầu thô đang được xếp vào khoản thu từ thuế như các khoản thu từ các sắc thuế. Xét về bản chất thì các khoản thu này không mang tính chất là khoản động viên từ nền kinh tế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến nguồn thu từ các sắc thuế không bao gồm thu từ dầu thô, thu từ đất đai, thu từ bán tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. Tỷ lệ động viên thuế từ GDP đạt mức cao Tỷ lệ động viên từ GDP vào thuế thể hiện hiệu quả của hệ thông thuế quốc gia nhưng đồng thời cũng thể hiện gánh nặng thuế, tạo sức ép cho các chủ thể kinh tế. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, tính trong giai đoạn 5 năm từ 2011 – 2015, tỉ lệ nguồn thu từ thuế ở Việt Nam khoảng 15,6% GDP (không bao gồm thu từ dầu thô và thu từ tiền sử dụng đất). Mặc dù tỷ lệ động viên của các sắc thuế chính ở mức thấp và đang được điều chỉnh theo xu hướng giảm dần nhưng so với một số quốc gia trong khu vực vẫn ở mức tương đối cao. Xu hướng giảm thuế trực thu, tăng thuế gián thu trong nguồn thu từ thuế Trong tổng nguồn thu từ thuế của Việt nam giai đoạn vừa qua, tỷ trọng giữa thuế trực thu và thuế gián thu về cơ bản là cân bằng. Thuế trực thu gồm các loại thuế thu nhập và thuế tài sản chiếm khoản 52%, thuế gián thu gồm các loại thuế tính trên giá trị hàng hóa, dịch vụ chiếm khoảng 48%. Các sắc thuế chủ yếu hiện nay gồm: Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN): Thuế suất thuế TNDN giảm từ 32% năm 1999, 28% năm 2004, 25% từ năm 2009, 22% năm 2014 và 20% từ 1/1/2016. Mức bình quân chung của các nước trên thế giới ở mức 27% thì thuế suất thuế TNDN ở Việt Nam là khá thấp. Thuế giá trị gia tăng (GTGT): hiện nay mức thuế suất phổ thông ở Việt Nam là 10% (cùng với mức thuế suất 5% được áp dụng đối với một số hàng hóa, dịch vụ thuộc loại thiết yếu và thông dụng, thuế thuế 0% được áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu). Việt Nam là một trong số ít các quốc gia có mức thuế suất ở mức 10%, còn lại phần lớn các quốc gia có thuế suất từ 12% đến 25%, thậm chí có nhiều quốc gia có mức thuế suất từ 17% đến 25%. Thuế tiêu thu đặc biệt (TTĐB): Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt từ 10% đến 70% (Thông tư 195/2015/TT - BTC) áp dụng đối với các hàng hóa dịch vụ Nhà nước không khuyến khích tiêu dùng hoặc việc tiêu dùng được tập trung vào những bộ phận có thu nhập cao hay những dịch vụ nhạy cảm về mặt xã hội. Quy định về thuế tiêu thụ đặc biệt phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần hình thành một xu hướng tiêu dùng tích cực trong xã hội. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu: Khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Hải quan thế giới, đồng thời tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do, theo đó thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng năm đều được cắt giảm đối với hàng nghìn dòng thuế dẫn đến tỷ trọng thu từ thuế xuất khẩu nhập khẩu g ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ổn định nguồn thu từ thuế khi Việt Nam tham gia hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP ỔN ĐỊNH NGUỒN THU TỪ THUẾ KHI VIỆT NAM THAM GIA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG TPP STABILIZING THE STATE BUDGET REVENUE FROM TAXES WHEN VIETNAM JOINS TRANS – PACIFIC PARTNERSHIP AGREEMENT (THE TPP) TS. Nguyễn Thị Minh Hạnh Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Việt Nam khởi động việc tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ tháng 3 năm 2010, cho đến nay đã trải qua 19 phiên chính thức và nhiều phiên giữa kỳ. TPP được kỳ vọng là mô hình mới về hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi tối đa cho thương mại, đầu tư giữa các nước thành viên. TPP được nhận định sẽ có tác động lớn đến kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế, tới từng doanh nghiệp và người tiêu dùng. Theo đó, áp lực chi tiêu công tăng lên trong khi áp lực giảm thuế theo cam kết khi gia nhập TPP và giảm thuế trong điều tiết sản xuất kinh doanh và tiêu dùng càng làm cho sự mất cân đối thu chi ngân sách càng trở nên căng thẳng. Đã có một số bài viết đưa ra các giải pháp tăng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn vừa qua, tuy nhiên với cách tiếp cận ở góc độ phân tích thực trạng nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế và chỉ ra những tác động của TTP đến nguồn thu từ thuế, từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm ổn định nguồn thu từ thuế của NSNN khi Việt Nam gia nhập TPP. Từ khóa: nguồn thu, ngân sách nhà nước, thuế,, TPP Abstract Vietnam has been preparing to participate in the Trans-Pacific Partnership Agreement (TPP) since March 2010. So far, Vietnam has undergone 19 formal sessions and a variety of mid-term sessions. TPP is expected to be the new model of regional economic cooperation, creating maximum favorable trade and investment among member countries. TPP has been identified to have a major impact on macroeconomics, economic growth, each business and consumers. Accordingly, the pressure on public spending is growing up while increasing pressure on tax reduction under the commitment to joining the TPP and under business - production and consumption generation makes a great imbalance between revenue and spendings. There have been a number of articles offering solutions to increase the state revenues from taxes in the recent period. However, due to the approach in terms of situational analysis of state budget revenue from taxes and the author indicates the impact of the TTP on tax revenues; on that basis, some solutions are offered to stabilize revenue from taxes for the state budget when Vietnam joins the TPP. Key words: revenues, state budget, taxes, the TPP. 183 1. Thực trạng nguồn thu từ thuế trước khi Việt Nam gia nhập TTP Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu cân đối và các khoản thu bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Thu cân đối ngân sách nhà nước, theo phương thức thống kê thu ngân sách của Việt Nam thì nguồn thu từ dầu thô, quyền sử dụng đất, từ bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước cũng được tính chung vào nguồn thu ngân sách, trong đó riêng thu từ dầu thô đang được xếp vào khoản thu từ thuế như các khoản thu từ các sắc thuế. Xét về bản chất thì các khoản thu này không mang tính chất là khoản động viên từ nền kinh tế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến nguồn thu từ các sắc thuế không bao gồm thu từ dầu thô, thu từ đất đai, thu từ bán tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. Tỷ lệ động viên thuế từ GDP đạt mức cao Tỷ lệ động viên từ GDP vào thuế thể hiện hiệu quả của hệ thông thuế quốc gia nhưng đồng thời cũng thể hiện gánh nặng thuế, tạo sức ép cho các chủ thể kinh tế. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, tính trong giai đoạn 5 năm từ 2011 – 2015, tỉ lệ nguồn thu từ thuế ở Việt Nam khoảng 15,6% GDP (không bao gồm thu từ dầu thô và thu từ tiền sử dụng đất). Mặc dù tỷ lệ động viên của các sắc thuế chính ở mức thấp và đang được điều chỉnh theo xu hướng giảm dần nhưng so với một số quốc gia trong khu vực vẫn ở mức tương đối cao. Xu hướng giảm thuế trực thu, tăng thuế gián thu trong nguồn thu từ thuế Trong tổng nguồn thu từ thuế của Việt nam giai đoạn vừa qua, tỷ trọng giữa thuế trực thu và thuế gián thu về cơ bản là cân bằng. Thuế trực thu gồm các loại thuế thu nhập và thuế tài sản chiếm khoản 52%, thuế gián thu gồm các loại thuế tính trên giá trị hàng hóa, dịch vụ chiếm khoảng 48%. Các sắc thuế chủ yếu hiện nay gồm: Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN): Thuế suất thuế TNDN giảm từ 32% năm 1999, 28% năm 2004, 25% từ năm 2009, 22% năm 2014 và 20% từ 1/1/2016. Mức bình quân chung của các nước trên thế giới ở mức 27% thì thuế suất thuế TNDN ở Việt Nam là khá thấp. Thuế giá trị gia tăng (GTGT): hiện nay mức thuế suất phổ thông ở Việt Nam là 10% (cùng với mức thuế suất 5% được áp dụng đối với một số hàng hóa, dịch vụ thuộc loại thiết yếu và thông dụng, thuế thuế 0% được áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu). Việt Nam là một trong số ít các quốc gia có mức thuế suất ở mức 10%, còn lại phần lớn các quốc gia có thuế suất từ 12% đến 25%, thậm chí có nhiều quốc gia có mức thuế suất từ 17% đến 25%. Thuế tiêu thu đặc biệt (TTĐB): Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt từ 10% đến 70% (Thông tư 195/2015/TT - BTC) áp dụng đối với các hàng hóa dịch vụ Nhà nước không khuyến khích tiêu dùng hoặc việc tiêu dùng được tập trung vào những bộ phận có thu nhập cao hay những dịch vụ nhạy cảm về mặt xã hội. Quy định về thuế tiêu thụ đặc biệt phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần hình thành một xu hướng tiêu dùng tích cực trong xã hội. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu: Khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Hải quan thế giới, đồng thời tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do, theo đó thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng năm đều được cắt giảm đối với hàng nghìn dòng thuế dẫn đến tỷ trọng thu từ thuế xuất khẩu nhập khẩu g ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phát triển kinh tế Việt Nam Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương Mô hình tăng trưởng kinh tế Kiểm soát cân đối thu chi ngân sách Công tác quản lý thuếTài liệu có liên quan:
-
12 trang 199 0 0
-
Ứng dụng mô hình ARDL nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
9 trang 193 0 0 -
11 trang 178 0 0
-
19 trang 162 0 0
-
Một số đột phá trong đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
12 trang 134 0 0 -
124 trang 126 0 0
-
346 trang 109 0 0
-
Hàm ý một số giải pháp phát triển doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam thời hội nhập
12 trang 97 0 0 -
Chủ nghĩa hướng ngoại và ý định mua hàng ngoại của người tiêu dùng đô thị Việt Nam
14 trang 87 1 0 -
4 trang 87 0 0