Phẩm Chất Nguồn Nước Ngầm ở Việt Nam
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 146.43 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong vài năm trở lại đây, mỗi khi đi vào không phận Sài Gòn, chúng ta sẽ thấy trên nhiều nóc nhà trong thành phố rải rác những thùng bằng inox hình trụ. Đó là những bồn chứa nước sinh hoạt cho gia đình từng nhà được bơm lên từ các nguồn nước ngầm qua các giếng. hêm ảnh hưởng của gió mùa, như mùa khô kéo dài khoảng 6
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phẩm Chất Nguồn Nước Ngầm ở Việt Nam Phẩm Chất Nguồn Nước Ngầm ở Việt NamTrong vài năm trở lại đây, mỗi khi đi vào không phận Sài Gòn, chúng ta sẽthấy trên nhiều nóc nhà trong thành phố rải rác những thùng bằng inox hìnhtrụ. Đó là những bồn chứa nước sinh hoạt cho gia đình từng nhà được bơmlên từ các nguồn nước ngầm qua các giếng. Lý do là nguồn nước do công tycấp nước không cung cấp đầy đủ cũng như phẩm chất không dược bảođãm. Do đó người dân tự động đào giếng, khoan giếng để có nguồn nướcsinh hoạt hàng ngày. Theo ước tính của Viện Nghiên cứu và Kế hoạchnguồn nước (Institute for Water Resource Research and Planning) của cáccơ quan quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Chương trình Phát triển LiênHiệp Quốc năm 1996 thì khả năng hiện có của nguồn nước ngầm ở ViệtNam là 48 tỷ m3/năm (hay 131,5 triệu m3/ngày). Tuy nhiên trong hiện tạimức xử dụng trung bình hàng năm là 1 tỷ m3 cho toàn cõi Việt Nam.Tuy nhiên, hầy hết dân chúng trong khi xử dụng nguồn nước nầy đã khôngphân tích phẩm chất của nước trước khi dùng. Tình trạng trên trở nên rấtnguy hiểm vì ở nhiều nơi nguồn nước đã bị ô nhiễm hữu cơ và một số kimloại độc hại ảnh hưởng không ít đến sức khỏe con người.Bài viết nầy có mục đích nói lên một số báo động với hy vọng người dântrong nước nhận thức được nguy cơ tiềm ẩn nầy để hầu có thể tránh đượcnhững di hại trong tương lai.Các loại giếng nướcCó 3 loại giếng nước hiện đang có ở Việt Nam. Đó là giếng đào, giếngđóng, và giếng khoan.1- Giếng đào: Loại giếng nầy thường thấy ở Việt Nam nhất là ở miền Nam,nơi mặt đất không cao nhiều so với mặt biển. Giếng đào được xử dụngnhiều ở vùng nầy vì chỉ cần đào xuống vài thước sâu là có thể có nướcphun ra. Nhiều nơi chỉ cần đào dưới 1 thước là đã chạm đến mạch nước.2- Giếng đóng: Đây là một loại giếng thông dụng trong khoảng hơn 15 nămnay. Loại giếng nầy có được qua việc đóng một ống nước có đường kínhtương đối nhỏ xuống vùng đất mềm như cát và sạn nhỏ. Nhiều nơi khôngcần đóng sâu và có thể chạm được mạch nước ở tầng dưới của giếng đào.3- Giếng khoan: Đây là một loại giếng cần phải có máy khoan và khoanxuyên qua một lớp đá sâu. Thông thường phải khoan trên dưới 200m nhưvùng Chợ Lớn, Khu Lê Minh Xuân, và cần phải đặt một bơm ở dưới đáy đểbơm nước lên. Giếng khoan rất ít thông dụng cho trường hợp cá nhân vì rấttốn kém mặc dù đây là một nguồn nước có phẩm chất tốt nhất. Còn hainguồn nước do giếng đóng và giếng đào, do mạch nước gần mặt đất, do đónguy cơ bị ô nhiễm do nông nghiệp, công nghiệp và chăn nuôi rất cao.Phẩm chất nước ngầmTại Việt Nam, nguồn nước mặt vẫn là nguồn nước chính cho hầu hết sinhhoạt gia cư và kỹ nghệ. Nước ngầm chỉ chiếm độ 30% mức tiêu thụ màthôi. Tuy nhiên ở nhiều nơi mức tiêu thụ nước ngầm lên đến 100% như ởthủ đô Hà Nội.Việt Nam có trên 630 thành phố, trong đó trung bình tỷ lệ người dân đượccung cấp nước khoảng 60% vẫn còn tương đối thấp. Khả năng cung cấpnước của 190 nhà máy nước trên toàn quốc là 2,6 triệu m3/ngày trong năm1998, trong lúc đó nhu cầu dự trù cho năm 2010 được ước tính là 8,8 triệum3/ngày cho nước sinh hoạt và kỹ nghệ.Đối với nông thôn và miền núi, từ năm 1982, Liên Hiệp Quốc qua Quỹ Nhiđồng thế giới (UNICEF) đã tài trợ cho việc đào giếng ở Việt Nam, và tínhđến hôm nay đã thực hiện trên 400.000 giếng cho toàn quốc, không kễ mộtsố lượng không nhỏ do tư nhân tự làm lấy đặc biệt ở vùng ĐBSCL.Nói chung, vũ lượng ở Việt Nam từ 1.800 đếm 2.000 mm nước mưa hàngnăm. Do đó, nước giếng sẽ dễ dàng bị ô nhiễm do nước mưa chuyển tảinhững hóa chất độc hại vào nguồn nước sâu trong lòng đất. Nên nhớ nướclà một dung môi tốt nhất hòa tan nhiều chất hữu cơ và vô cơ có sẳn từ trongđất và đá. Vì vậy nước lấy từ nguồn giếng cần phải được phân tích kỹlưỡng để xác định được phẩm chất trước khi dùng. Đặc biệt tại ĐBSCL,nước ngầm lại còn có thêm nguy cơ nhiễm mặn và một khi nước mặn đã đivào nguồn nước ngầm thì toàn vùng sẽ bị nhiễm và các giếng trong vùng sẽkhó có cơ may để đuổi mặn.Ở Việt Nam, còn có thêm ảnh hưởng của gió mùa, như mùa khô kéo dàikhoảng 6 tháng, do đó mực nước ngầm trong giai đoạn nầy giảm xuống rấtnhiều. Lại thêm, việc phá rừng bừa bãi làm cho mức dự trử nước mưa ở lớpđất mặt không còn nữa, hậu quả là tình trạng hạn hán thường xuyên kéo dàithêm ra.Các nguyên nhân chính làm ô nhiễm nguồn nước ngầm được đan cử nhưsau:1- Nhiễm mặn: Do khai thác nông nghiệp và chăn nuôi quá tải và khôngđúng cách là nguyên nhân chính cho việc ô nhiễm nguồn nước ngầm, tạođiều kiện thuận lợi cho việc nhiễm mặn ở nhiều nơi. Mạch nước ngầm mộtkhi đã bị nhiễm mặn khó có thể xử dụng lại được nữa. Đó là tình trạngchung của nhiều vùng trải dài từ Bắc chí Nam, đặc biệt là các thành phố kỹnghệ gần biển và ĐBSCL. Đối với các vùng cao, và xa bờ biển, mức độnhiễm mặn cũng đã xảy ra do các nguồn muối nải sinh từ phân bón đã thấmvào mạch nước ngầm như ở Long An, Hải Dương v.v...2- Nhiễm arsenic: Từ năm 1999 đến nay, chúng tôi thường xuyên khảo sátcác nguồn nước mặt và nước ngầm từ Bắc chí Nam, đặc biệt ở vùngĐBSCL và đã cảnh báo là tình trạng ô nhiễm arsenic trong nguồn nước làmột nguy cơ có thật. Mãi đến năm 2001, nguy cơ trên mới được MichealBerg, thuộc viện Liên bang Khoa học và Công nghệ Môi trường Thụy Sĩcông bố trên tạp chí của Hội Hóa học Hoa Kỳ (ACS) là tạp chíEnvironmental Science & Technology, số tháng 7/2001, là nguồn nướcuống ở vùng phía Bắc Việt Nam đã bị nhiễm arsenic với nồng độ gấp 50cao hơn định mức của Việt Nam (10 phần tỷ). Nguyên nhân được tác giảnêu ra là do nguồn nước từ các giếng đóng ở độ sâu từ 10 đến 35 m. Năm2003, tình trạng ô nhiễm nầy đã được chứng minh qua việc khám phá mộtsố bịnh nhân bị bịnh arsenicosis tức là lòng bàn tay và chân bị nám đen.Đây là giai đoạn đầu từ 5 đến 10 bị nhiễm độc arsenic. Chúng tôi cũng đãcông bố nồng độ có trong nguồn nước ngầm ở Biên Hòa, Mỹ Tho, LongAn, Gò Công, Bến Tre từ 10 đến 30 phần tỷ . Riêng các tỉnh Cần Thơ, TràVinh, Long Xuyên, Châu Đ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phẩm Chất Nguồn Nước Ngầm ở Việt Nam Phẩm Chất Nguồn Nước Ngầm ở Việt NamTrong vài năm trở lại đây, mỗi khi đi vào không phận Sài Gòn, chúng ta sẽthấy trên nhiều nóc nhà trong thành phố rải rác những thùng bằng inox hìnhtrụ. Đó là những bồn chứa nước sinh hoạt cho gia đình từng nhà được bơmlên từ các nguồn nước ngầm qua các giếng. Lý do là nguồn nước do công tycấp nước không cung cấp đầy đủ cũng như phẩm chất không dược bảođãm. Do đó người dân tự động đào giếng, khoan giếng để có nguồn nướcsinh hoạt hàng ngày. Theo ước tính của Viện Nghiên cứu và Kế hoạchnguồn nước (Institute for Water Resource Research and Planning) của cáccơ quan quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Chương trình Phát triển LiênHiệp Quốc năm 1996 thì khả năng hiện có của nguồn nước ngầm ở ViệtNam là 48 tỷ m3/năm (hay 131,5 triệu m3/ngày). Tuy nhiên trong hiện tạimức xử dụng trung bình hàng năm là 1 tỷ m3 cho toàn cõi Việt Nam.Tuy nhiên, hầy hết dân chúng trong khi xử dụng nguồn nước nầy đã khôngphân tích phẩm chất của nước trước khi dùng. Tình trạng trên trở nên rấtnguy hiểm vì ở nhiều nơi nguồn nước đã bị ô nhiễm hữu cơ và một số kimloại độc hại ảnh hưởng không ít đến sức khỏe con người.Bài viết nầy có mục đích nói lên một số báo động với hy vọng người dântrong nước nhận thức được nguy cơ tiềm ẩn nầy để hầu có thể tránh đượcnhững di hại trong tương lai.Các loại giếng nướcCó 3 loại giếng nước hiện đang có ở Việt Nam. Đó là giếng đào, giếngđóng, và giếng khoan.1- Giếng đào: Loại giếng nầy thường thấy ở Việt Nam nhất là ở miền Nam,nơi mặt đất không cao nhiều so với mặt biển. Giếng đào được xử dụngnhiều ở vùng nầy vì chỉ cần đào xuống vài thước sâu là có thể có nướcphun ra. Nhiều nơi chỉ cần đào dưới 1 thước là đã chạm đến mạch nước.2- Giếng đóng: Đây là một loại giếng thông dụng trong khoảng hơn 15 nămnay. Loại giếng nầy có được qua việc đóng một ống nước có đường kínhtương đối nhỏ xuống vùng đất mềm như cát và sạn nhỏ. Nhiều nơi khôngcần đóng sâu và có thể chạm được mạch nước ở tầng dưới của giếng đào.3- Giếng khoan: Đây là một loại giếng cần phải có máy khoan và khoanxuyên qua một lớp đá sâu. Thông thường phải khoan trên dưới 200m nhưvùng Chợ Lớn, Khu Lê Minh Xuân, và cần phải đặt một bơm ở dưới đáy đểbơm nước lên. Giếng khoan rất ít thông dụng cho trường hợp cá nhân vì rấttốn kém mặc dù đây là một nguồn nước có phẩm chất tốt nhất. Còn hainguồn nước do giếng đóng và giếng đào, do mạch nước gần mặt đất, do đónguy cơ bị ô nhiễm do nông nghiệp, công nghiệp và chăn nuôi rất cao.Phẩm chất nước ngầmTại Việt Nam, nguồn nước mặt vẫn là nguồn nước chính cho hầu hết sinhhoạt gia cư và kỹ nghệ. Nước ngầm chỉ chiếm độ 30% mức tiêu thụ màthôi. Tuy nhiên ở nhiều nơi mức tiêu thụ nước ngầm lên đến 100% như ởthủ đô Hà Nội.Việt Nam có trên 630 thành phố, trong đó trung bình tỷ lệ người dân đượccung cấp nước khoảng 60% vẫn còn tương đối thấp. Khả năng cung cấpnước của 190 nhà máy nước trên toàn quốc là 2,6 triệu m3/ngày trong năm1998, trong lúc đó nhu cầu dự trù cho năm 2010 được ước tính là 8,8 triệum3/ngày cho nước sinh hoạt và kỹ nghệ.Đối với nông thôn và miền núi, từ năm 1982, Liên Hiệp Quốc qua Quỹ Nhiđồng thế giới (UNICEF) đã tài trợ cho việc đào giếng ở Việt Nam, và tínhđến hôm nay đã thực hiện trên 400.000 giếng cho toàn quốc, không kễ mộtsố lượng không nhỏ do tư nhân tự làm lấy đặc biệt ở vùng ĐBSCL.Nói chung, vũ lượng ở Việt Nam từ 1.800 đếm 2.000 mm nước mưa hàngnăm. Do đó, nước giếng sẽ dễ dàng bị ô nhiễm do nước mưa chuyển tảinhững hóa chất độc hại vào nguồn nước sâu trong lòng đất. Nên nhớ nướclà một dung môi tốt nhất hòa tan nhiều chất hữu cơ và vô cơ có sẳn từ trongđất và đá. Vì vậy nước lấy từ nguồn giếng cần phải được phân tích kỹlưỡng để xác định được phẩm chất trước khi dùng. Đặc biệt tại ĐBSCL,nước ngầm lại còn có thêm nguy cơ nhiễm mặn và một khi nước mặn đã đivào nguồn nước ngầm thì toàn vùng sẽ bị nhiễm và các giếng trong vùng sẽkhó có cơ may để đuổi mặn.Ở Việt Nam, còn có thêm ảnh hưởng của gió mùa, như mùa khô kéo dàikhoảng 6 tháng, do đó mực nước ngầm trong giai đoạn nầy giảm xuống rấtnhiều. Lại thêm, việc phá rừng bừa bãi làm cho mức dự trử nước mưa ở lớpđất mặt không còn nữa, hậu quả là tình trạng hạn hán thường xuyên kéo dàithêm ra.Các nguyên nhân chính làm ô nhiễm nguồn nước ngầm được đan cử nhưsau:1- Nhiễm mặn: Do khai thác nông nghiệp và chăn nuôi quá tải và khôngđúng cách là nguyên nhân chính cho việc ô nhiễm nguồn nước ngầm, tạođiều kiện thuận lợi cho việc nhiễm mặn ở nhiều nơi. Mạch nước ngầm mộtkhi đã bị nhiễm mặn khó có thể xử dụng lại được nữa. Đó là tình trạngchung của nhiều vùng trải dài từ Bắc chí Nam, đặc biệt là các thành phố kỹnghệ gần biển và ĐBSCL. Đối với các vùng cao, và xa bờ biển, mức độnhiễm mặn cũng đã xảy ra do các nguồn muối nải sinh từ phân bón đã thấmvào mạch nước ngầm như ở Long An, Hải Dương v.v...2- Nhiễm arsenic: Từ năm 1999 đến nay, chúng tôi thường xuyên khảo sátcác nguồn nước mặt và nước ngầm từ Bắc chí Nam, đặc biệt ở vùngĐBSCL và đã cảnh báo là tình trạng ô nhiễm arsenic trong nguồn nước làmột nguy cơ có thật. Mãi đến năm 2001, nguy cơ trên mới được MichealBerg, thuộc viện Liên bang Khoa học và Công nghệ Môi trường Thụy Sĩcông bố trên tạp chí của Hội Hóa học Hoa Kỳ (ACS) là tạp chíEnvironmental Science & Technology, số tháng 7/2001, là nguồn nướcuống ở vùng phía Bắc Việt Nam đã bị nhiễm arsenic với nồng độ gấp 50cao hơn định mức của Việt Nam (10 phần tỷ). Nguyên nhân được tác giảnêu ra là do nguồn nước từ các giếng đóng ở độ sâu từ 10 đến 35 m. Năm2003, tình trạng ô nhiễm nầy đã được chứng minh qua việc khám phá mộtsố bịnh nhân bị bịnh arsenicosis tức là lòng bàn tay và chân bị nám đen.Đây là giai đoạn đầu từ 5 đến 10 bị nhiễm độc arsenic. Chúng tôi cũng đãcông bố nồng độ có trong nguồn nước ngầm ở Biên Hòa, Mỹ Tho, LongAn, Gò Công, Bến Tre từ 10 đến 30 phần tỷ . Riêng các tỉnh Cần Thơ, TràVinh, Long Xuyên, Châu Đ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
môi trường Việt Nam bảo vệ môi trường tài nguyên môi trường môi trường biển môi trường nước nước ngầm ở Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tài liệu Giáo dục địa phương tỉnh Bắc Kạn lớp 1
60 trang 675 0 0 -
báo cáo chuyên đề GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
78 trang 284 0 0 -
10 trang 264 0 0
-
Biểu mẫu Cam kết an toàn lao động
2 trang 220 4 0 -
Báo cáo đánh giá tác động môi trường: Đánh giá tác động môi trường xây dựng nhà máy xi măng
63 trang 162 0 0 -
Vai trò chỉ thị của đồng vị phóng xạ trong nghiên cứu các quá trình môi trường
7 trang 144 0 0 -
130 trang 140 0 0
-
Tiểu luận môn: Quản lý tài nguyên môi trường
43 trang 136 0 0 -
13 trang 135 0 0
-
Bài giảng Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường - Chương 0: Giới thiệu học phần (Năm 2022)
8 trang 133 0 0