Thông tin tài liệu:
PH N 1: Ầ DINH DƯỠNG VÀ SỨC KHOẺ
ĂN UỐNG và sức khỏe càng ngày càng được chú ý và có nhiều nghiên cứu chứng minh SỰ LIÊN QUAN CHẶT CHẼ GIỮA
ĂN UỐNG VÀ SỨC KHỎE. ăn uống không chỉ là đáp ứng nhu cầu cấp thiết hàng ngày, mà còn là biện pháp để duy trì và
nâng cao sức khỏe và tăng tuổi thọ.
Vấn đề ăn đã được đặt ra từ khi có loài người, lúc đầu chỉ nhằm giải quyết chống lại cảm giác đói và sau đó người ta thấy
ngoài việc thỏa mãn nhu cầu bữa ăn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PHẦN 1: DINH DƯỠNG VÀ SỨC KHOẺ
PHẦN 1: DINH DƯỠNG VÀ SỨC KHOẺ
ĂN UỐNG và sức khỏe càng ngày càng được chú ý và có nhiều nghiên cứu chứng minh SỰ LIÊN QUAN CHẶT CHẼ GIỮA
ĂN UỐNG VÀ SỨC KHỎE. ăn uống không chỉ là đáp ứng nhu cầu cấp thiết hàng ngày, mà còn là biện pháp để duy trì và
nâng cao sức khỏe và tăng tuổi thọ.
Vấn đề ăn đã được đặt ra từ khi có loài người, lúc đầu chỉ nhằm giải quyết chống lại cảm giác đói và sau đó người ta thấy
ngoài việc thỏa mãn nhu cầu bữa ăn còn đem lại cho người ta niềm vui. Ngày nay vấn đề ăn còn liên quan đến sự phát
triển và là yếu tố quan trọng cho sự phát triển cho cộng đồng, khu vực và cả một đất nước. Ði đầu trong nghiên cứu vấn
đề ăn uống và sức khỏe là các thầy thuốc. Qua quan sát và nghiên cứu đã chứng minh nhiều yếu tố ăn uống liên quan
đến bệnh tật và sức khỏe.
I. LịCH Sử PHáT TRIểN CủA KHOA HọC DINH DƯỡNG
1. Những quan niệm trước đây:
Từ trước công nguyên các nhà y học đã nói tới ăn uống và cho ăn uống là một phương tiện để chữa bệnh và giữ gìn sức
khỏe. Hypocrát (460-377) trước công nguyên đã chỉ ra vai trò của ăn bảo vệ sức khỏe và khuyên phải chú ý, tùy theo tuổi
tác, thời tiết, công việc mà nên ăn nhiều hay ít, ăn một lúc hay rải ra nhiều lần. Hypocrat nhấn mạnh về vai trò ăn trong
điều TRỊ. ÔNG viết Thức ăn cho bệnh nhân phải là một phương tiện điều trị và trong phương tiện điều trị của chúng ta
phải có dinh dưỡng. ÔNG CŨNG NHẬN XÉT HẠN CHẾ VÀ ĂN THIẾU CHẤT BỔ RẤT NGUY HIỂM ÐỐI VỚI NGƯỜI
MẮC BỆNH MẠN TÍNH. Ở NƯỚC TA TUỆ TĨ NH THẾ KỈ THỨ XIV TRONG SÁCH NAM DƯỢC THẦN hiệu đã đề cập
nhiều đến tính chất chữa bệnh của thức ăn và có những lời khuyên ăn uống trong một số bệnh và ông đã phân biệt ra
thức ăn HÀN NHIỆT. HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG MỘT DANH Y VIỆT NAM THẾ KỈ XVIII CŨNG RẤT CHÚ Ý TỚI VIỆC ĂN
UỐNG CỦA NGƯỜI BỆNH. ÔNG VIẾT CÓ THUỐC MÀ THÔNG CÓ ĂN UỐNG THÌ CŨNG ÐI ÐẾN CHỖ chết. Ðối với
người nghèo không những ông thăm bệnh, cho thuốc không lấy tiền mà còn trợ giúp cá gạo và thực phẩm cần thiết cho
người bệnh. Trong cuốn Nữ Công Thắng Lãm còn ghi 200 món ăn.
2. Các mốc phát triển của dinh dưỡng học:
Sidengai người Anh có thể coi là người thừa kế nhưng ý tưởng của Hypocrat, ông đã cho rằng Ðể nhằm mục đích điều trị
cũng như phòng bệnh trong nhiều bệnh chỉ cần cho ăn những chế độ ăn thích hợp và sống một đời sống có tổ chức hợp
lý, Sidengai cũng chống lại sự mê tín thuốc men và yêu cầu lấy bếp thay phòng bào chế . Cùng thời với ông còn có
Hacvay một người tìm ra tuần hoàn máu trong cơ thể. Hacvay cũng rất chú ý đến chế độ ăn (diet) trong đó còn một chế độ
ăn hạn chế mở trong một số bệnh đến nay được gọi là chế độ ăn Bentinh tên một bệnh nhân của Hacvay sau khi ăn điều
trị có kết quả đã tuyên truyền rất nhiêu chế độ ăn này.
TỪ CUỐI THẾ KY XVII những nghiên cứu về vai trò sinh năng lượng của thức ăn với những công trình của Lavoadie
(1743-1794) đã chứng minh thức ăn vào cơ thể được chuyển hóa sinh năng lượng.
Liebig (1803-1873) đã có những công trình nghiên cứu chứng minh trong thức ăn những chất sinh năng lượng là protein,
lipit và gluxit. Ðồng thời có Magendi nghiên cứu vai trò của Protein rất quan trọng đối với sự sống sau này, năm 1838
Mulder đã đề nghị đặt tên chất đó là protein. Nhưng nghiên cứu về cân bằng năng lượng Voit (1831-1908) của P.Rubner
(1854-1932) đã chế tạo ra buồng đo nhiệt lượng và chứng minh được định luật bảo toàn năng lượng áp dụng cho cơ thể
sống.
Những nghiên cứu về vitamin mở đầu gắn liền với bệnh hoại huyết của thủy thủ mà Giem Cook đã khuyên là chế độ ăn
của thủy thủ cần uống nước chanh hoa quả (1728-1779). Sau đó là những nghiên cứu của Eikman (1858-1930) đã tìm RA
NGUYÊN NHÂN CỦA BỆNH BERIBERI VÀO NĂM 1886 Ở đảo Java Indonexia sau đó 30 năm, năm 1897 J.A.Funk đã tìm
ra chất đó là vitamin B1. Tiếp theo các công trình nghiên cứu Bunghe và Hopman nghiên cứu về vai trò của muối khoáng .
NOOCDEN NĂM 1893 TỔ CHỨC Ở Beclin lớp học cho các bác sĩ về vấn đề chuyển hóa, vấn đề ăn cho bệnh nhân. Cùng
thời gian này (1897) Páplốp đã xuất bản Bài giảng về hoạt động của các tuyến tiêu hóa chính. Công trình của nhà sinh lý
1
học thiên tài Nga đã đặt ra trước thế giới con đường hoàn toàn mới mẻ và độc đáo về cách thực nghiệm và lâm sàng trong
lĩnh vực sinh lý và bệnh lý bộ máy tiêu hóa và có một ảnh hưởng rất lớn trong phát triển ngành dinh dưỡng.
Từ cuối thế kỷ 19 tới nay, những công trình nghiên cứu về vai trò của các axít amin các vitamin, các axit béo không no, các
vi lượng dinh dưỡng ở PHẠM VI TẾ BÀO, TỔ CHỨC và toàn cơ thể đã góp phần hình thành, phát triển và đưa ngành dinh
dưỡng lên thành một môn học. Cùng với những nghiên cứu về bệnh suy dinh dưỡng protein năng lượng của nhiều tác giả
như Gomez 1956, Jelliffe 1959, Welcome 1970, Waterlow 1973. Những nghiên cứu về thiếu vi chất như thiếu vitamin A VÀ
BỆNH KHÔ MẮT (BITOT 1863, M. Collum 1913 ...