Danh mục

Phân biệt lãi suất thực (dư nợ giảm dần ) và lãi suất danh nghĩa ( lãi phẳng )

Số trang: 3      Loại file: doc      Dung lượng: 45.50 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng các ngân hàng “nởrộ” dịch vụ cho vay vốn trả góp tiêu dùng theo hình thức tín chấpvới hạn mức từ vài chục triệu đến vài trăm triệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân biệt lãi suất thực (dư nợ giảm dần ) và lãi suất danh nghĩa ( lãi phẳng )Phân biệt lãi suất thực (dư nợ giảm dần ) và lãi suất danh nghĩa ( lãi phẳng )Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng các ngân hàng “nởrộ” dịch vụ cho vay vốn trả góp tiêu dùng theo hình thức tín chấpvới hạn mức từ vài chục triệu đến vài trăm triệu.Tuy nhiên, nhìn vào lãi suất có sự chênh lệch, ví dụ có ngân hàngcông bố lãi suất chỉ từ 0,7% - 0,8% một tháng, trong khi đó có ngânhàng lại tới 1,5%.Hiện nay trên thị trường, các ngân hàng thường áp dụng hai cáchtính lãi suất : tính lãi suất trên dư nợ thực tế hoặc tính lãi suất trêndư nợ ban đầu. Trên cơ sở hai cách tính lãi này, lãi suất thực tế sẽchênh lệch nhau khá nhiều.Ví dụ, ngân hàng A áp dụng lãi suất là 13% một năm với cách tínhlà trên dư nợ ban đầu. Khách hàng vay 30 triệu trong 18 tháng, tínhra mỗi tháng sẽ phải trả gốc là 1.666.667 đồng và lãi là 325.000đồng. Tổng lãi phải trả trong 12 tháng là 5.850.000 đồng.Trong khi đó, Ngân hàng B áp dụng lãi suất 18% một tháng với cáchtính là trên dư nợ thực tế giảm dần. Khách hàng vay 30 triệu trong18 tháng. Với cách xác định gốc và lãi phải trả theo niên kim, tức làtrả nợ gốc và lãi cố định hàng tháng thì tổng lãi phải trả của kháchhàng là 4.097.447 đồng.Như vậy thoạt nhìn lãi suất của hai ngân hàng có sự chênh lệchđáng kể và lãi suất theo cách tính dư nợ ban đầu có vẻ hấp dẫn hơnso với cách tính dư nợ thực tế, tuy nhiên với cách tính lãi suất nhưvậy thì trên thực tế tổng lãi phải trả của trường hợp trả theo dư nợban đầu sẽ lớn hơn đáng kể so với trả lãi theo dự nợ thực tế.Nếu nhìn lại trên thị trường vay vốn tiêu dùng, hầu hết các ngânhàng áp dụng cách tính lãi suất trên dư nợ ban đầu, dẫn đến lãi suấtchênh lệch tương đối lớn. Một số ngân hàng áp dụng các tính trêndư nợ ban đầu thì lãi suất chỉ khoảng dưới 1% một tháng (khoảngtừ 0,7% - 1%), các ngân hàng áp dụng cách tính trên dư nợ thực tếgiảm dần thì lãi suất thường khoảng trên 1%. Với mức lãi suấtcông bố như vậy thì đương nhiên hầu hết khách hàng sẽ chọn ngânhàng có lãi suất thấp hơn. Tất nhiên, lãi suất thực tế mà khách hàngphải trả ở cả hai trường hợp này là như nhau, thậm chí lãi suấtthực tế của trường hợp dư nợ gốc sẽ nhỉnh hơn so với dư nơ thựctế như ta thấy ở trường hợp trên.Tại ngân hàng X, để tính lãi suất thực cho một khoản vay tín chấpáp dụng lãi suất trên dư nợ ban đầu, khách hàng có thể sử dụngcông thức: Lãi suất thực tế = 2 x n x r/(n+1).Trong đó, (n) là thời hạn khoản vay và (r) là lãi suất của ngân hàngcông bố.Nếu tính theo công thức này thì với mức lãi suất 13% một năm trêndư nợ ban đầu của một ngân hàng thì lãi suất thực tế khách hàngphải trả cho khoản vay trong 18 tháng là 24,63%. Nhưng thực tế cácngân hàng áp dụng tính lại trên dư nợ ban đầu lại không áp dụngmức lãi suất 24,63% mà thường là 25% hoặc 26%.Ngân hàng X cho biết, hai cách tính này rất phổ biến trên thế giớivà thực tế là một cách thức marketing của các ngân hàng. Ở nướcta, khách hàng chưa hiểu rõ về hai cách tính này nên mới dẫn đếntình trạng các ngân hàng sử dụng để thu hút người đi vay. Một khiđã hiểu rõ về vấn đề, người có nhu cầu tín dụng sẽ lựa chọn sảnphẩm dựa trên những điều kiện thực tế mà các ngân hàng đưa ra.Lúc này, năng lực cạnh tranh thực sự của các ngân hàng phải đượcthể hiện rõ nhất qua từng điều khoản tín dụng mang lại lợi ích tốtnhất cho khách hàng.

Tài liệu được xem nhiều: