Phan Bội Châu và mối quan hệ mật thiết với Nhật Bản và Trung Quốc
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 178.61 KB
Lượt xem: 4
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tham khảo tài liệu phan bội châu và mối quan hệ mật thiết với nhật bản và trung quốc, tài liệu phổ thông, ngữ văn - tiếng việt phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phan Bội Châu và mối quan hệ mật thiết với Nhật Bản và Trung Quốc Phan Bội Châu và mối quan hệ mậtthiết với Nhật Bản và Trung Quốc – tìm hiểu trường hợp Phan Bội Châu tiếp thu và chuyển hoá các câu chuyện anh hùng dựng nước phương Tây Phan Bội Châu (1867-1940) là một chí sĩ yêu nước Việt Nam thời cận đại, tên thậtlà Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, còn gọi là Thị Hán. Ông sinh năm 1867 trong mộtgia đình nhà giáo nông thôn thuộc huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Từ tấm bé ông đãcùng cha (Phan Văn Phổ, không rõ năm sinh năm mất) học kinh điển Nho học, tinhthông chữ Hán. Năm 1885 ông hạ quyết tâm chống lại cuộc xâm lược và chế độ cai trịcủa Chủ nghĩa đế quốc Pháp, đã tập hợp hơn 60 bạn học tổ chức thành Thí sinhquân bảo vệ tổ quốc. Từ năm 1900 trở đi, ông chủ động liên lạc với các nhà yêu nướckhắp nơi trên toàn quốc tiến hành các phong trào kháng Pháp. Tháng 5 năm 1904, ôngthành lập “Việt Nam Duy Tân Hội” với tôn chỉ là “khôi phục Việt Nam, kiến lập quốcgia quân chủ lập hiến”. Đầu năm 1905 ông đến Nhật Bản, lần lượt làm quen với LươngKhải Siêu (1873-1929), Tôn Trung Sơn (1866-1925), Chương Thái Viêm (1869-1936),v.v... qua đó ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng hai nhân vật Lương Khải Siêu vàTôn Trung Sơn, đồng thời cũng có những mối liên hệ nhất định với các đại thần DuyTân người Nhật Bản như Okuma Shigenobu (1838-1922) và Inukai Tsuyoshi (1855-1932). Sau đó ông đã nhiều lần đến Nhật Bản và Trung Quốc, một mặt chủ động liên lạcvới những người yêu nước chống Pháp trong nước, mặt khác tiến hành các công tác cáchmạng ở Nhật Bản và Trung Quốc, tổ chức đưa nhiều học sinh thanh niên Việt Nam sanglưu học tại Nhật Bản trong Phong trào Đông Du. Dưới sự nỗ lực của bản thân và các chísĩ yêu nước khác, đến năm 1907 đã có hơn 200 người đến Nhật Bản du học. Năm 1909,cả Phan Bội Châu cùng Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (1882-1951) đều bị chính phủ NhậtBản trục xuất vì các hoạt động chống Pháp của các ông. Về sau, do chịu ảnh hưởngmạnh mẽ của cuộc cách mạng Tân Hợi tại Trung Quốc, ông đứng ra thành lập Việt NamQuang Phục Hội vào tháng 2 năm 1912 tại Quảng Châu, do chính ông làm Hội chủ,phương châm chính trị là “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nướcCộng hòa Việt Nam”. Năm 1913 ông bị bắt giam ở Quảng Châu, đến năm 1917 mớiđược phóng thích. Từ đó ông đi lại nhiều nơi khác nhau ở Trung Quốc như Bắc Kinh,Hàng Châu, Thượng Hải, Quảng Châu, Vân Nam, Quý Châu, kể cả sang các nước TriềuTiên, Nhật Bản và Thái Lan v.v... nhằm thúc đẩy phong trào cách mạng ở Việt Nam.Năm 1924 ông giải thể Hội Quang Phục ở Quảng Châu, tiến tới thành lập Việt NamQuốc Dân Đảng. Ngày 11/5/1925, trên đường đến Thượng Hải ông bị đặc vụ Pháp bắtgiữ giải về nước, giam lỏng ở Bến Ngự Huế đến năm 1940 thì qua đời(2). ... Trung Quốc và các quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán đều bị các quốc giaphương Tây xâm lược và uy hiếp, hết thảy đều có những thay đổi trên các phương diệnchính trị, tư tưởng và văn hóa, và đều đang tìm kiếm các đối sách để chống lại. Song dotình hình mỗi nước khác nhau nên nội dung, phương thức và tốc độ của những thay đổinói trên cũng khác nhau. Dù vậy điểm giống nhau đáng chú ý là các trí thức khai sáng hoặc các trí thức ởTrung Quốc và các quốc gia Đông Á đều đã từng coi các quốc gia hiện đại hóa phươngTây là mô hình để cách tân. Họ không ngừng nỗ lực tìm tòi nguyên nhân đạt đến trìnhđộ “nước giàu, binh mạnh”, “khai hóa văn minh” của các quốc gia Tây Âu này. Mặtkhác, họ coi Nhật Bản là đầu tàu, nước đã từng từ bỏ chính sách bán nước và xóa bỏchính thể Mạc Phủ, thực hiện mạnh mẽ công cuộc Duy Tân Minh Trị, lần lượt trải quahai cuộc chiến tranh là chiến tranh Giáp Ngọ (chiến tranh Trung-Nhật) và chiến tranhNhật-Nga, trở thành quốc gia giàu mạnh nhất Đông Á, được xếp vào hàng ngũ cáccường quốc thế giới. Chính điều này đã khiến cho các quốc gia Đông Á bao gồm cảTrung Quốc tích cực học tập mô hình cách tân Nhật Bản, và vì thế nhiều chí sĩ khai sángvà trí thức các nước tìm cách sang Nhật Bản du học(3). Mà một trong các con đườngquan trọng để họ tiếp thu tri thức mới, mở rộng tầm nhìn của mình là tìm đọc các thưtịch tân học của Nhật Bản, tức trực tiếp đọc các văn bản nguyên văn tiếng Nhật, hoặcthông qua đọc các quyển đã chuyển ngữ thành Trung văn để tìm hiểu nội dung. Thôngqua các hoạt động ấy, tư tưởng và nội dung Tây học/ Tân học đã được truyền bá đến cácquốc gia Đông Á, trực tiếp phát huy ảnh hưởng đến các quốc gia này. Phan Bội Châuđóng vai trò quan trọng của người trực tiếp tiếp nhận và truyền bá, cũng là nhà tiênphong “ mở mắt nhìn thế giới” tìm hiểu cục diện tình hình thế giới tương đối sớm ở ViệtNam. Do đó, trong bài viết này chúng tôi không tập trung vào mối quan hệ giữa PhanBội Châu và văn hóa kinh điển Trung Quốc mà lựa chọn một góc nhìn mới để xem xétvấn đề. Chúng tôi đi từ các quá trình tiếp xúc, tiếp thu, chuyển hóa và truyền bá nhữngtri thức mới, tư duy mới của Phan Bội Châu kể từ biến cố Mậu ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phan Bội Châu và mối quan hệ mật thiết với Nhật Bản và Trung Quốc Phan Bội Châu và mối quan hệ mậtthiết với Nhật Bản và Trung Quốc – tìm hiểu trường hợp Phan Bội Châu tiếp thu và chuyển hoá các câu chuyện anh hùng dựng nước phương Tây Phan Bội Châu (1867-1940) là một chí sĩ yêu nước Việt Nam thời cận đại, tên thậtlà Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, còn gọi là Thị Hán. Ông sinh năm 1867 trong mộtgia đình nhà giáo nông thôn thuộc huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Từ tấm bé ông đãcùng cha (Phan Văn Phổ, không rõ năm sinh năm mất) học kinh điển Nho học, tinhthông chữ Hán. Năm 1885 ông hạ quyết tâm chống lại cuộc xâm lược và chế độ cai trịcủa Chủ nghĩa đế quốc Pháp, đã tập hợp hơn 60 bạn học tổ chức thành Thí sinhquân bảo vệ tổ quốc. Từ năm 1900 trở đi, ông chủ động liên lạc với các nhà yêu nướckhắp nơi trên toàn quốc tiến hành các phong trào kháng Pháp. Tháng 5 năm 1904, ôngthành lập “Việt Nam Duy Tân Hội” với tôn chỉ là “khôi phục Việt Nam, kiến lập quốcgia quân chủ lập hiến”. Đầu năm 1905 ông đến Nhật Bản, lần lượt làm quen với LươngKhải Siêu (1873-1929), Tôn Trung Sơn (1866-1925), Chương Thái Viêm (1869-1936),v.v... qua đó ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng hai nhân vật Lương Khải Siêu vàTôn Trung Sơn, đồng thời cũng có những mối liên hệ nhất định với các đại thần DuyTân người Nhật Bản như Okuma Shigenobu (1838-1922) và Inukai Tsuyoshi (1855-1932). Sau đó ông đã nhiều lần đến Nhật Bản và Trung Quốc, một mặt chủ động liên lạcvới những người yêu nước chống Pháp trong nước, mặt khác tiến hành các công tác cáchmạng ở Nhật Bản và Trung Quốc, tổ chức đưa nhiều học sinh thanh niên Việt Nam sanglưu học tại Nhật Bản trong Phong trào Đông Du. Dưới sự nỗ lực của bản thân và các chísĩ yêu nước khác, đến năm 1907 đã có hơn 200 người đến Nhật Bản du học. Năm 1909,cả Phan Bội Châu cùng Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (1882-1951) đều bị chính phủ NhậtBản trục xuất vì các hoạt động chống Pháp của các ông. Về sau, do chịu ảnh hưởngmạnh mẽ của cuộc cách mạng Tân Hợi tại Trung Quốc, ông đứng ra thành lập Việt NamQuang Phục Hội vào tháng 2 năm 1912 tại Quảng Châu, do chính ông làm Hội chủ,phương châm chính trị là “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nướcCộng hòa Việt Nam”. Năm 1913 ông bị bắt giam ở Quảng Châu, đến năm 1917 mớiđược phóng thích. Từ đó ông đi lại nhiều nơi khác nhau ở Trung Quốc như Bắc Kinh,Hàng Châu, Thượng Hải, Quảng Châu, Vân Nam, Quý Châu, kể cả sang các nước TriềuTiên, Nhật Bản và Thái Lan v.v... nhằm thúc đẩy phong trào cách mạng ở Việt Nam.Năm 1924 ông giải thể Hội Quang Phục ở Quảng Châu, tiến tới thành lập Việt NamQuốc Dân Đảng. Ngày 11/5/1925, trên đường đến Thượng Hải ông bị đặc vụ Pháp bắtgiữ giải về nước, giam lỏng ở Bến Ngự Huế đến năm 1940 thì qua đời(2). ... Trung Quốc và các quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán đều bị các quốc giaphương Tây xâm lược và uy hiếp, hết thảy đều có những thay đổi trên các phương diệnchính trị, tư tưởng và văn hóa, và đều đang tìm kiếm các đối sách để chống lại. Song dotình hình mỗi nước khác nhau nên nội dung, phương thức và tốc độ của những thay đổinói trên cũng khác nhau. Dù vậy điểm giống nhau đáng chú ý là các trí thức khai sáng hoặc các trí thức ởTrung Quốc và các quốc gia Đông Á đều đã từng coi các quốc gia hiện đại hóa phươngTây là mô hình để cách tân. Họ không ngừng nỗ lực tìm tòi nguyên nhân đạt đến trìnhđộ “nước giàu, binh mạnh”, “khai hóa văn minh” của các quốc gia Tây Âu này. Mặtkhác, họ coi Nhật Bản là đầu tàu, nước đã từng từ bỏ chính sách bán nước và xóa bỏchính thể Mạc Phủ, thực hiện mạnh mẽ công cuộc Duy Tân Minh Trị, lần lượt trải quahai cuộc chiến tranh là chiến tranh Giáp Ngọ (chiến tranh Trung-Nhật) và chiến tranhNhật-Nga, trở thành quốc gia giàu mạnh nhất Đông Á, được xếp vào hàng ngũ cáccường quốc thế giới. Chính điều này đã khiến cho các quốc gia Đông Á bao gồm cảTrung Quốc tích cực học tập mô hình cách tân Nhật Bản, và vì thế nhiều chí sĩ khai sángvà trí thức các nước tìm cách sang Nhật Bản du học(3). Mà một trong các con đườngquan trọng để họ tiếp thu tri thức mới, mở rộng tầm nhìn của mình là tìm đọc các thưtịch tân học của Nhật Bản, tức trực tiếp đọc các văn bản nguyên văn tiếng Nhật, hoặcthông qua đọc các quyển đã chuyển ngữ thành Trung văn để tìm hiểu nội dung. Thôngqua các hoạt động ấy, tư tưởng và nội dung Tây học/ Tân học đã được truyền bá đến cácquốc gia Đông Á, trực tiếp phát huy ảnh hưởng đến các quốc gia này. Phan Bội Châuđóng vai trò quan trọng của người trực tiếp tiếp nhận và truyền bá, cũng là nhà tiênphong “ mở mắt nhìn thế giới” tìm hiểu cục diện tình hình thế giới tương đối sớm ở ViệtNam. Do đó, trong bài viết này chúng tôi không tập trung vào mối quan hệ giữa PhanBội Châu và văn hóa kinh điển Trung Quốc mà lựa chọn một góc nhìn mới để xem xétvấn đề. Chúng tôi đi từ các quá trình tiếp xúc, tiếp thu, chuyển hóa và truyền bá nhữngtri thức mới, tư duy mới của Phan Bội Châu kể từ biến cố Mậu ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu văn học văn học nghị luận quan điểm văn học văn học tham khảo nghị luận văn họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
9 trang 3395 1 0
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 787 0 0 -
Phân tích bài thơ 'Trở về quê nội' của Lê Anh Xuân
7 trang 748 0 0 -
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
13 trang 715 0 0 -
6 trang 609 0 0
-
2 trang 457 0 0
-
Thuyết minh về tác gia văn học Xuân Diệu
6 trang 392 0 0 -
4 trang 366 0 0
-
Bình giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
9 trang 311 0 0 -
Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 năm 2021-2022 có đáp án - Phòng GD&ĐT Châu Đức
4 trang 242 0 0