Danh mục

Phân cấp vùng thích nghi dinh dưỡng một số loài chim lội nước tại vườn quốc gia Xuân Thủy, tỉnh Nam Định

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 753.10 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vườn quốc gia (VQG) Xuân Thủy tỉnh Nam Định là điểm Ramsar ven biển độc đáo của Việt Nam. Nơi đây có hệ sinh thái cửa sông ven biển rất quan trọng cả về mặt sinh thái và kinh tế- xã hội. Khu vực rừng ngập mặn ven cửa Ba Lạt này có diện tích hơn 7.100 ha, là điểm dừng chân của các loài chim di trú quốc tế nằm trong sách đỏ quốc tế. Kết quả nghiên cứu từ năm 2007 đến năm 2010 cho thấy số lượng các loài chim lội nước biến động không lớn, tuy nhiên từ năm 2010 đến nay số lượng đang có chiều hướng giảm mạnh, đặc biệt là Rẽ mỏ thìa (Eurynorhynchus pygmeus) đã không còn thấy xuất hiện tại Vườn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân cấp vùng thích nghi dinh dưỡng một số loài chim lội nước tại vườn quốc gia Xuân Thủy, tỉnh Nam Định Đặng Kim Vui và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 101(01): 29 - 33 PHÂN CẤP VÙNG THÍCH NGHI DINH DƯỠNG MỘT SỐ LOÀI CHIM LỘI NƯỚC TẠI VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH Đặng Kim Vui, Hoàng Văn Hùng*, Vũ Thị Kim Hảo Trường Đại học Nông lâm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Vườn quốc gia (VQG) Xuân Thủy tỉnh Nam Định là điểm Ramsar ven biển độc đáo của Việt Nam. Nơi đây có hệ sinh thái cửa sông ven biển rất quan trọng cả về mặt sinh thái và kinh tế- xã hội. Khu vực rừng ngập mặn ven cửa Ba Lạt này có diện tích hơn 7.100 ha, là điểm dừng chân của các loài chim di trú quốc tế nằm trong sách đỏ quốc tế. Kết quả nghiên cứu từ năm 2007 đến năm 2010 cho thấy số lượng các loài chim lội nước biến động không lớn, tuy nhiên từ năm 2010 đến nay số lượng đang có chiều hướng giảm mạnh, đặc biệt là Rẽ mỏ thìa (Eurynorhynchus pygmeus) đã không còn thấy xuất hiện tại Vườn. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự suy giảm số lượng của các loài chim tại vườn như quai đê lấn biển, vây vùng nuôi tôm v.v. Qua khảo sát 14 kiểu sinh cảnh đặc trưng tại VQG Xuân Thủy cho thấy có 2 sinh cảnh chính được các loài chim sinh sống kiếm ăn là: Sinh cảnh đầm tôm, phù sa glay bồi lắng. Tại 55 điểm dinh dưỡng được nghiên cứu bằng hệ thống định vị toàn cầu GPS kết hợp với dữ liệu thông tin địa lý GIS thu được kết quả: Cò lạo Ấn Độ: 2/15 điểm thích nghi chiếm 13,33%, Mòng bể mỏ ngắn: 1/10 điểm rất thích nghi chiếm 10%, Cò thìa: 4/17 điểm rất thích nghi chiếm 23,53%. Từ kết quả trên cho thấy vấn đề bảo tồn những vùng sinh sống của các loài chim lội nước tại VQG Xuân Thủy đặc biệt quan trọng và cần có các biện pháp hiệu quả để gìn giữ hệ sinh thái quý giá này. Từ khóa: Chim lội nước, Đất ngập nước, GIS, Vùng thích nghi, Vườn quốc gia Xuân Thủy. MỞ ĐẦU* Vườn quốc gia (VQG) Xuân Thủy là một vùng bãi bồi ngập nước rộng lớn nằm ở phía nam cửa Sông Hồng; bao gồm một phần cồn Ngạn (ở phía ngoài đê Vành Lược), toàn bộ cồn Lu và cồn Xanh thuộc huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định (Nguyễn Viết Cách, 2011). VQG Xuân Thuỷ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Địa hình tự nhiên được kiến tạo bởi quy luật bồi lắng phù sa của vùng cửa sông ven biển. Các bãi sa bồi rộng lớn nằm xen kẽ với các dòng sông tạo nên cảnh quan tự nhiên đặc thù của khu vực. Vật liệu cấu thành nên các cồn bãi bao gồm cả sét lẫn cát, đã định hình nên các đầm lầy (là nơi sinh trưởng của rừng ngập mặn, cũng là nơi ăn nghỉ của những loài chim nước và chim di trú) (Hoàng Văn Hùng et al., 2012). Hàng năm, cứ đến dịp đông từ tháng 11, 12 năm trước đến tháng 3, 4 năm sau, vào mùa chim di cư, hàng chục ngàn con chim nước đã dừng chân nghỉ ngơi, trú đông, kiếm mồi tích luỹ năng lượng cho cuộc hành trình dài từ * Tel: 0989 372386, Email: hvhungtn74@yahoo.com Xibêri, Trung Quốc, Triều Tiên xuống Australia và theo hướng ngược lại (Đặng Kim Vui et al., 2013). Vào thời điểm đông nhất, có từ 30.000 - 40.000 con chim các loại dừng chân nghỉ ngơi, trú đông (Anita Pedersen, Nguyễn Huy Thắng, 1996). Các hoạt động nuôi trồng thủy sản không bền vững là mối đe dọa phá đi các bãi bùn ngập triều, dẫn đến mất đi sinh cảnh của loài chim. Xây dựng các đập chắn nước hoặc tàn phá rừng ngập mặn cũng gây ảnh hưởng đến tốc độ bồi lấn ở vùng đồng bằng và làm ảnh hưởng đến loài chim di cư (Lee et al., 1995). Tại VQG Xuân Thủy, các loài chim lội nước sống tập trung tại các khu vực: bãi Trong, cồn Ngạn, cồn Lu và cồn Xanh. Tại đây có dạng sinh cảnh phù sa glay bồi lắng. Đất chủ yếu là phù sa và các sản phẩm lắng đọng được đưa từ đất liền tới. Tầng đất dày, lầy thụt và màu mỡ tạo điều kiện cho các sinh vật phù du phát triển mạnh (Đặng Kim Vui et al., 2013). Khu vực này tập trung nhiều loài thực vật nổi và nhiều loài động vật thuỷ sinh sống phù du. Ngoài ra, đây cũng chính là nơi các loài thuỷ sản phát triển mạnh như ngao (vạng), các loài 29 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Đặng Kim Vui và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ cua, cáy, dạm, các loài cá v.v. Đó là nguồn thức ăn vô tận của các loài chim nước. Hầu hết các các loài chim nước di cư tới đây vì dạng sinh cảnh này (Hoàng Văn Hùng et al., 2012). Nghiên cứu tiến hành đánh giá 4 loài có mặt tại VQG Xuân Thủy: Rẽ mỏ thìa, cò thìa, cò lao Ấn Độ, mòng bể mỏ ngắn, đại diện cho 4 mức độ phân cấp của IUCN. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Vật liệu nghiên cứu - Dung cụ bao gồm ống têlêcốp, ống nhòm cầm tay, phiếu điều tra, Máy GPS Trimble Juno SB, máy ảnh Canon SX30IS. - Sử dụng ảnh viễn thám SPOT- 4 (2010) đưa các dữ liệu bổ sung vào GIS. Số hóa các lớp thông tin từ các bản đồ nền bằng phần mềm Envi 4.5, kết hợp các dữ liệu thu thập được tại các điểm GPS xây dựng cơ sở dữ liệu và bản đồ phân vùng sinh thái dựa trên các tiêu chí thực, phần mềm Arcgis 9.3. Phương pháp nghiên cứu Thời gian tiến hành nghiên cứu: - Thời gian tiến hành nghiên cứu từ tháng 9/2012 đến 1/2013 (đây là thời gian các loài chi ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: