Phan Huy Ôn, nhà sử học kiêm toán học ở thế kỷ XVIII 1
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 258.15 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Phan Huy Ôn, nhà sử học kiêm toán học ở thế kỷ XVIII1Phan Huy Ôn là con ông Phan Huy Cận (sau đổi là Áng) và là em ông Phan Huy Ích, một nhân vật có nhiều đóng góp vào cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Họ Phan này gốc ở chợ Cày (tức làng Ngọc Điền, nay thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh), về sau mới rời sang làng Canh Hoạch ở cùng tỉnh1. Cuối đời Lê, nhân Phan Huy Cận ra làm quan ở Thăng Long, gia đình này mới nhập tịch làng Thuỵ Khuê, sáng lập ra chi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phan Huy Ôn, nhà sử học kiêm toán học ở thế kỷ XVIII 1Phan Huy Ôn, nhà sử học kiêm toán học ở thế kỷ XVIII 1Phan Huy Ôn là con ông Phan Huy Cận (sau đổi là Áng) và là em ông Phan HuyÍch, một nhân vật có nhiều đóng góp vào cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Họ Phan nàygốc ở chợ Cày (tức làng Ngọc Điền, nay thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh), về saumới rời sang làng Canh Hoạch ở cùng tỉnh1. Cuối đời Lê, nhân Phan Huy Cận ralàm quan ở Thăng Long, gia đình này mới nhập tịch làng Thuỵ Khuê, sáng lập rachi họ Phan ở Sài Sơn, tỉnh Hà Sơn Bình cũ.Huy Ôn thuở còn trẻ tên là Khuông, lớn lên đi thi đổi là Uông, tự Trọng Dương,hiệu Nhã Hiên, đến sau khi đỗ thi hương, lại đổi tên là Ôn, tự Hoà Phủ, hiệu ChỉAn. Năm ông đỗ giải nguyên mới 20 tuổi (1774), đến năm 26 tuổi (1779) đỗ đồngtiến sỹ, sau làm đốc đồng2 Sơn Tây, rồi Thái Nguyên và Thị chế Hàn lâm viện,đến năm 32 tuổi (1786) thì mất, được tặng Mỹ Xuyên bá, và truy tặng tước MỹXuyên hầu. Năm ông mất, chính là năm Quang Trung kéo quân ra Thăng Long,diệt họ Trịnh, củng cố lại ngôi vua cho nhà Lê.Huy Ôn tuy mất lúc còn trẻ tuổi, nhưng cũng để lại một số tác phẩm có giá trị, cólẽ ông tranh thủ biên soạn trong lúc làm quan, nhất là khi ở Viện hàn lâm. Tácphẩm của ông, ngoài một số bài thơ nhỏ lẻ, có các tập đăng khoa lục nh ư: Liệthuyện đăng khoa lục, Khoa bảng tiêu kỳ, Nghệ An tạp ký và đặc biệt có quyển Chỉminh lập thành toán pháp.Về các tập đăng khoa lục, Huy Ôn dựa theo tài liệu cũ sắp xếp lại có hệ thống hơn,một mặt theo các triều đại, mặt khác theo các trấn (tỉnh) các huyện, liệt kê danhsách các người đỗ đại khoa, như tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa),tiến sĩ (tức Hoàng giáp), đồng tiến sĩ ở các kỳ thi chính, tức có định kỳ. Ngoài ra,tác giả có lưu ý ghi chép danh sách người thi đỗ ở các kỳ thi đặc biệt, không địnhkỳ, như các khoa Minh kinh, hoành từ, chế khoa.Như vậy, trong quyển Liệt huyện đăng khoa lục, ông đã có công viết tiểu sử rất kỹmột số người có tên tuổi, thí dụ Nguyễn Trãi, và có công sắp xếp rành mạch từnghuyện một, đặc biệt trong tỉnh Nghệ An, là tỉnh chánh quán của ông, ông đã tìmtòi, bổ sung được một số người không có trong các tập đăng khoa lục trước đó.Cần chú ý rằng tỉnh Nghệ An thời Lê bao gồm Hà Tĩnh thời Nguyễn và bao gồmcả châu Bố Chính, giáp Hoành Sơn (nay thuộc Quảng Bình). Qua quyển này,chúng ta thấy Nghệ An thời Lê chỉ có hai trại trạng nguyên, một là Bạch Liêu,người làng Nguyễn Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay ở huyện YênThành), sau làm gia khách cho Trần Quang Khải rời nhà ra ở làng Nghĩa Lư,huyện Thanh Lâm (Hải Hưng), nhưng lúc về già lại vào ở chân Hồng Lĩnh, hiệncó mộ táng ở xã Thiên Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh hiện nay); hai là Trương Xán,người làng Hoành Bồ (giáp đèo Ngang), huyện Hoành Sơn, phủ Hà Hoa. BạchLiêu đỗ khoa Đại tỉ đời Trần Thánh Tông, còn Trương Xán đỗ khoa Đại tỉ trướcđó, đời Trần Thái Tông. Việc này ghi rõ trong quyển Nghệ An tạp ký, có lẽ cũngchỉ là một chương của quyển Liệt huyện đăng khoa lục. Về quyển Liệt huyện đăngkhoa lục này, về sau, em ông Huy Ôn là Huy Sáng tiếp tục chỉnh lý và bổ sung.Riêng trong quyển Khoa bảng tiêu kỳ gồm 8 mục, chúng ta thấy có vài chỗ chéptrùng lắp với quyển Liệt huyện đăng khoa lục ở trên, ngoài mục thứ sáu là mụcchép về các khoa thi hương (hương khảo). Đặc biệt, tác giả có tập hợp một số giađình có truyền thống đỗ đại khoa như ba đời liền cùng đỗ, hoặc trong một đời màcha con, chú cháu, anh em cùng đỗ, hoặc có 8 gia đình mà 3 anh em cùng đỗ tiếnsĩ… Ngoài ra, tác giả có một số tra cứu bổ sung ở các khoa thi ch ưa chính quykhoảng những năm mà Lê Lợi sắp và mới lên ngôi vua, thí dụ khi Lê Lợi đếnĐông Đô, mở khoa thi đầu tiên giấy Giáp đệ 26 người, Đào Công Soạn đỗ đầu, vàẤt đệ 6 người, Nguyễn Tông Vĩ đỗ đầu; tiếp đó có các khoa Minh kinh có TriệuThái đỗ đầu; khoa Hoành từ có Nguyễn Thiên Tích đỗ đầu; khoa đặc biệt đối sáchnăm Quý Sửu, có Chu Xa đỗ đầu.Đến thời Lê Thánh Tông, trước khoa Đại Bảo là khoa chính quy, dẫn đầu là trạngnguyên Nguyễn Trực, có khoa thi ch ưa chính quy năm Ất Mão ở nhà Vân tập chỉlấy có 6 người, có Nguyễn Nhật Tuyên đỗ đầu. Những chi tiết như vậy rất cầnthiết cho việc tìm hiểu sự phát triển văn hoá thời Lê sơ, vì rằng các kỳ thi đó đượcchép rất lộn xộn ở nhiều sách đăng khoa lục khác.Đặc biệt, Huy Ôn rất chú trọng về toán học: Quyển Chỉ minh lập thành toán phápcủa ông khá thông dụng thời Lê và Nguyễn, lúc mà ngành toán ở nước ta đang ởbước sơ đẳng, so với ngành toán hiện đại ngày nay. Không rõ tác giả soạn sáchnày vào những năm nào, có thể trước thời gian ông làm quan, tức trước năm 1779,lúc ông còn dạy học ở Đông Ngạc (Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội hiện nay), vìrằng tên tác giả ghi là: Đông Ngạc xã, lão phố Phan Huy Khuông tức là cái tên lúccòn hàn vi.Bản chép tay này ở Thư viện khoa học xã hội là một bản phần đầu gồm quyển Chỉminh lập thành toán pháp của H ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phan Huy Ôn, nhà sử học kiêm toán học ở thế kỷ XVIII 1Phan Huy Ôn, nhà sử học kiêm toán học ở thế kỷ XVIII 1Phan Huy Ôn là con ông Phan Huy Cận (sau đổi là Áng) và là em ông Phan HuyÍch, một nhân vật có nhiều đóng góp vào cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Họ Phan nàygốc ở chợ Cày (tức làng Ngọc Điền, nay thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh), về saumới rời sang làng Canh Hoạch ở cùng tỉnh1. Cuối đời Lê, nhân Phan Huy Cận ralàm quan ở Thăng Long, gia đình này mới nhập tịch làng Thuỵ Khuê, sáng lập rachi họ Phan ở Sài Sơn, tỉnh Hà Sơn Bình cũ.Huy Ôn thuở còn trẻ tên là Khuông, lớn lên đi thi đổi là Uông, tự Trọng Dương,hiệu Nhã Hiên, đến sau khi đỗ thi hương, lại đổi tên là Ôn, tự Hoà Phủ, hiệu ChỉAn. Năm ông đỗ giải nguyên mới 20 tuổi (1774), đến năm 26 tuổi (1779) đỗ đồngtiến sỹ, sau làm đốc đồng2 Sơn Tây, rồi Thái Nguyên và Thị chế Hàn lâm viện,đến năm 32 tuổi (1786) thì mất, được tặng Mỹ Xuyên bá, và truy tặng tước MỹXuyên hầu. Năm ông mất, chính là năm Quang Trung kéo quân ra Thăng Long,diệt họ Trịnh, củng cố lại ngôi vua cho nhà Lê.Huy Ôn tuy mất lúc còn trẻ tuổi, nhưng cũng để lại một số tác phẩm có giá trị, cólẽ ông tranh thủ biên soạn trong lúc làm quan, nhất là khi ở Viện hàn lâm. Tácphẩm của ông, ngoài một số bài thơ nhỏ lẻ, có các tập đăng khoa lục nh ư: Liệthuyện đăng khoa lục, Khoa bảng tiêu kỳ, Nghệ An tạp ký và đặc biệt có quyển Chỉminh lập thành toán pháp.Về các tập đăng khoa lục, Huy Ôn dựa theo tài liệu cũ sắp xếp lại có hệ thống hơn,một mặt theo các triều đại, mặt khác theo các trấn (tỉnh) các huyện, liệt kê danhsách các người đỗ đại khoa, như tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa),tiến sĩ (tức Hoàng giáp), đồng tiến sĩ ở các kỳ thi chính, tức có định kỳ. Ngoài ra,tác giả có lưu ý ghi chép danh sách người thi đỗ ở các kỳ thi đặc biệt, không địnhkỳ, như các khoa Minh kinh, hoành từ, chế khoa.Như vậy, trong quyển Liệt huyện đăng khoa lục, ông đã có công viết tiểu sử rất kỹmột số người có tên tuổi, thí dụ Nguyễn Trãi, và có công sắp xếp rành mạch từnghuyện một, đặc biệt trong tỉnh Nghệ An, là tỉnh chánh quán của ông, ông đã tìmtòi, bổ sung được một số người không có trong các tập đăng khoa lục trước đó.Cần chú ý rằng tỉnh Nghệ An thời Lê bao gồm Hà Tĩnh thời Nguyễn và bao gồmcả châu Bố Chính, giáp Hoành Sơn (nay thuộc Quảng Bình). Qua quyển này,chúng ta thấy Nghệ An thời Lê chỉ có hai trại trạng nguyên, một là Bạch Liêu,người làng Nguyễn Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay ở huyện YênThành), sau làm gia khách cho Trần Quang Khải rời nhà ra ở làng Nghĩa Lư,huyện Thanh Lâm (Hải Hưng), nhưng lúc về già lại vào ở chân Hồng Lĩnh, hiệncó mộ táng ở xã Thiên Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh hiện nay); hai là Trương Xán,người làng Hoành Bồ (giáp đèo Ngang), huyện Hoành Sơn, phủ Hà Hoa. BạchLiêu đỗ khoa Đại tỉ đời Trần Thánh Tông, còn Trương Xán đỗ khoa Đại tỉ trướcđó, đời Trần Thái Tông. Việc này ghi rõ trong quyển Nghệ An tạp ký, có lẽ cũngchỉ là một chương của quyển Liệt huyện đăng khoa lục. Về quyển Liệt huyện đăngkhoa lục này, về sau, em ông Huy Ôn là Huy Sáng tiếp tục chỉnh lý và bổ sung.Riêng trong quyển Khoa bảng tiêu kỳ gồm 8 mục, chúng ta thấy có vài chỗ chéptrùng lắp với quyển Liệt huyện đăng khoa lục ở trên, ngoài mục thứ sáu là mụcchép về các khoa thi hương (hương khảo). Đặc biệt, tác giả có tập hợp một số giađình có truyền thống đỗ đại khoa như ba đời liền cùng đỗ, hoặc trong một đời màcha con, chú cháu, anh em cùng đỗ, hoặc có 8 gia đình mà 3 anh em cùng đỗ tiếnsĩ… Ngoài ra, tác giả có một số tra cứu bổ sung ở các khoa thi ch ưa chính quykhoảng những năm mà Lê Lợi sắp và mới lên ngôi vua, thí dụ khi Lê Lợi đếnĐông Đô, mở khoa thi đầu tiên giấy Giáp đệ 26 người, Đào Công Soạn đỗ đầu, vàẤt đệ 6 người, Nguyễn Tông Vĩ đỗ đầu; tiếp đó có các khoa Minh kinh có TriệuThái đỗ đầu; khoa Hoành từ có Nguyễn Thiên Tích đỗ đầu; khoa đặc biệt đối sáchnăm Quý Sửu, có Chu Xa đỗ đầu.Đến thời Lê Thánh Tông, trước khoa Đại Bảo là khoa chính quy, dẫn đầu là trạngnguyên Nguyễn Trực, có khoa thi ch ưa chính quy năm Ất Mão ở nhà Vân tập chỉlấy có 6 người, có Nguyễn Nhật Tuyên đỗ đầu. Những chi tiết như vậy rất cầnthiết cho việc tìm hiểu sự phát triển văn hoá thời Lê sơ, vì rằng các kỳ thi đó đượcchép rất lộn xộn ở nhiều sách đăng khoa lục khác.Đặc biệt, Huy Ôn rất chú trọng về toán học: Quyển Chỉ minh lập thành toán phápcủa ông khá thông dụng thời Lê và Nguyễn, lúc mà ngành toán ở nước ta đang ởbước sơ đẳng, so với ngành toán hiện đại ngày nay. Không rõ tác giả soạn sáchnày vào những năm nào, có thể trước thời gian ông làm quan, tức trước năm 1779,lúc ông còn dạy học ở Đông Ngạc (Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội hiện nay), vìrằng tên tác giả ghi là: Đông Ngạc xã, lão phố Phan Huy Khuông tức là cái tên lúccòn hàn vi.Bản chép tay này ở Thư viện khoa học xã hội là một bản phần đầu gồm quyển Chỉminh lập thành toán pháp của H ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
danh nhân việt nam nhà cách mạng việt nam nhà văn hóa việt nam người việt nam nổi tiếng văn hóa việt namGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài 'Tìm hiểu thực trạng việc sống thử của sinh viên hiện nay'
13 trang 377 0 0 -
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 275 1 0 -
Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn
21 trang 196 0 0 -
Tiểu luận: Giới thiệu chung về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
10 trang 133 0 0 -
189 trang 128 0 0
-
Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam: Phần 1 - NXB ĐH Huế
99 trang 121 0 0 -
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vương (chủ biên)
31 trang 116 0 0 -
Tìm hiểu Việt Nam và Nhật Bản trong thế giới Đông Á: Phần 2
97 trang 109 0 0 -
Truyền thống văn hóa & phương pháp xây dựng văn hóa dân tộc: Phần 1
88 trang 104 0 0 -
Ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam đến chiến lược marrketing của doanh nghiệp
8 trang 97 2 0