Thông tin tài liệu:
Phân tích chiến lược của doanh nghiệp là việc nghiên cứu thuần tuý về doanh nghiệp. Ngoài bảng tổng kết tài sản và bảng cân đối tài khoản, nó còn dựa trên một số yếu tố khác. Việc phân tích chiến lược có thể bao gồm:
Lịch sử của doanh nghiệp
Đôi khi việc nghiên cứu quá khứ của một doanh nghiệp là điều rất có ích để có thể hiểu rõ được chiến lược phát triển của nó hiện nay và trong tương lai. Ngoài ngày thành lập, điều có thể tạo thuận lợi cho việc theo dõi khả năng......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân tích chiến lược của doanh nghiệp
Phân tích chiến lược của doanh nghiệp
Phân tích chiến lược của doanh nghiệp là việc nghiên cứu thuần tuý về doanh nghiệp.
Ngoài bảng tổng kết tài sản và bảng cân đối tài khoản, nó còn dựa trên một số yếu tố
khác. Việc phân tích chiến lược có thể bao gồm:
Lịch sử của doanh nghiệp
Đôi khi việc nghiên cứu quá khứ của một doanh nghiệp là điều rất có ích để có thể hiểu
rõ được chiến lược phát triển của nó hiện nay và trong tương lai. Ngoài ngày thành lập,
điều có thể tạo thuận lợi cho việc theo dõi khả năng thích ứng của doanh nghiệp,
phương thức thành lập doanh nghiệp cũng là một lợi ích không nhỏ.
Hãy lấy ví dụ một doanh nghiệp tư nhân được điều hành trong hàng thập kỷ bởi lần lượt
các thế hệ ông, cha và con. Nó sẽ có xu hướng giảm tốc độ phát triển. Điều này cho
phép chủ doanh nghiệp giữ vững quyền lực. Ngược lại, một doanh nghiệp phát triển
mạnh mẽ bằng việc thâu tóm một cách thù địch các doanh nghiệp khác sẽ hầu như
không có sự thay đổi trong chiến lược của nó trong tương lai, trừ phi có biến động lớn về
cơ cấu quyền lực.
Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực cũng quan trọng tương đương với khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp có thể sẽ mất dần theo thời gian nhiều vụ đầu tư
vào các hợp đồng tương lai đã làm biến mất hoàn toàn khả năng tài chính của nhiều
công ty đa quốc gia, nhưng rất hiếm khi một doanh nghiệp bị mất hoàn toàn năng lực
của nhân viên của nó. Mặt khác, tuy đào tạo được một nguồn nhân lực có khả năng vừa
mất nhiều thời gian vừa tốn kém hơn là thay đổi kỹ thuật sản xuất nhưng không phải khi
nào máy móc cũng có thể thay thế con người. Một doanh nghiệp có hai dạng nhân lực:
Người lãnh đạo
Một vài người lãnh đạo có thể có tiếng tăm nhiều hay ít. Người ta có thể kể đến những
tên tuổi như Michel Bon, cựu Chủ tịch của Carrefour và nay là chủ tịch của France
Télécom, hay như Christian Blanc, cựu chủ tịch của Air France. Trong cả hai trường hợp,
khả năng của người lãnh đạo có thể là nguyên nhân của sự thành công của các doanh
nghiệp mà họ điều hành. Người ta cũng có thể phân biệt giữa người lãnh đạo những
công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Người lãnh đạo công ty cổ phần thường có
tầm nhìn xa hơn nhiều so với chủ các doanh nghiệp tư nhân. Các nhà lãnh đạo sắp đến
tuổi nghỉ hưu cũng có xu hướng hạn chế việc theo đuổi những dự án cỡ lớn. Điều này có
nguy cơ làm giảm khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp trong nhiều năm sau. Chính
vì thế, tuổi tác cũng có tầm quan trọng như là khả năng quản lý của người lãnh đạo.
Người lao động: bao gồm cả cán bộ và công nhân viên. Đây chính là hạt nhân của năng
lực phát triển của doanh nghiệp. Người lao động có năng lực cao có thể không ngừng cải
thiện các điều kiện làm việc và qua đó, cải thiện cả những sản phẩm cuối cùng. Những
chi phí đào tạo và quá trình tuyển dụng các nguồn nhân lực phải được nghiên cứu một
cách tỷ mỷ. Trên thực tế, một vài doanh nghiệp như IBM đã theo đuổi một chính sách
tuyển dụng có thể được gọi là “vô tính”. Tất cả những nhân viên mới của nó đều được
đào tạo và hướng nghiệp giống hệt những người cũ. Chính sách tuyển dụng này đã giải
thích một phần sự chậm trễ của IBM trong công nghệ viễn thông vào đầu những năm 90.
Nguồn lực tài chính. Chiến lược của một doanh nghiệp DN phải được đặt trong mối quan
hệ với khả năng tài chính của nó. Người ta sẽ suy nghĩ như thế nào về một DN khẳng
định mong muốn phát triển nhờ vào những nguồn lực bên ngoài, vay nợ nhiều nhưng lại
không có tài sản gì đáng kể? Một DN phải có đủ phương tiện để thực hiện tham vọng
của nó, nhưng không cần dư. Thực tế, thật vô ích nếu DN có lượng tiền mặt rất dồi dào
nhưng lại không được đem ra đầu tư mà chỉ đem gửi vào các tài khoản vãng lai tại ngân
hàng. Một DN có tiền rảnh rỗi đem đầu tư vào những dự án ngắn hạn còn lãng phí hơn
nhiều so với việc vay tiền để đầu tư.
Công cụ sản xuất. Nhằm mục đích nghiên cứu và phát triển, những chi phí cho việc đầu
tư vào các tài sản hữu hình là hoàn toàn cần thiết. Ví dụ như khi bạn đầu tư vào máy
móc thiết bị, nguyên tắc đánh thuế không cho phép bạn khấu trừ toàn bộ chi phí đầu tư
ngay trong năm đầu. Nó phải được khấu hao từng phần trong nhiều năm. Vậy, khi bạn
nhận thấy có sự giảm sút về các khoản khấu hao, cũng có nghĩa là tăng về kết quả kinh
doanh, cần phải đặt ra một vài câu hỏi. Tại sao khấu hao giảm sút? Có phải nó xuất phát
từ việc máy móc thiết bị đã lỗi thời? Hoặc DN không có dự án đầu tư khả thi? Trong
những trường hợp này, DN có nguy cơ thụt lùi về sản xuất trong những năm tới, hoặc sẽ
suy giảm khả năng cạnh tranh. Việc nghiên cứu chính sách đầu tư của DN vào công cụ
sản xuất cũng là điều rất cần thiết trong việc phân tích chiến lược.
Sản phẩm. Để giảm bớt những rủi ro gắn liền với hoạt động sản xuất của nó, DN cần
phải đa dạng hóa sản phẩm. Trong quá khứ đã có nhiều DN cố bám vào việc sản xuất
sợi amian để rồi khi thức dậy vào một buổi sáng nào đó, đã thấy hoạt động của mình bị
cấm. Một số DN khác chuyên sản xuất ...