Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (giai đoạn Mị ở Hồng Ngài, trong nhà thống lý Pá Tra)
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 138.61 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tô Hoài là nhà văn Hà Nội, sinh năm 1920, tự học mà thành tài. Khi bước vào tuổi "xưa nay hiếm", ông đã có trên 100 tác phẩm. Trang văn xuôi của ông giàu chất thơ, viết hay về phong tục sinh hoạt, có tài tả cảnh với lối kể chuyện sinh động, hóm hỉnh, đậm đà. Ông viết thành công về truyện thiếu nhi, về đề tài miền núi. "Dế Mèn phiêu lưu kí", "Truyện Tây Bắc", "Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ", "Miền Tây",v.v... là những tác phẩm đặc sắc của ông được bạn đọc gần xa...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân tích nhân vật Mị trong truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài (giai đoạn Mị ở Hồng Ngài, trong nhà thống lý Pá Tra) Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (giai đoạn Mị ở Hồng Ngài, trong nhà thống lý Pá Tra) Tô Hoài là nhà văn Hà Nội, sinh năm 1920, tự học mà thành tài. Khi bước vàotuổi xưa nay hiếm, ông đã có trên 100 tác phẩm. Trang văn xuôi của ông giàu chấtthơ, viết hay về phong tục sinh hoạt, có tài tả cảnh với lối kể chuyện sinh động, hómhỉnh, đậm đà. Ông viết thành công về truyện thiếu nhi, về đề tài miền núi. Dế Mènphiêu lưu kí, Truyện Tây Bắc, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Miền Tây,v.v... lànhững tác phẩm đặc sắc của ông được bạn đọc gần xa yêu thích. Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, một chuyến đi dàihơn nửa năm. Ông đã viết truyện Vợ chồng A Phủ, qua đó nói lên sự thống khổ củangười Mèo ở Tây Bắc và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một lòngquyết tâm đi theo kháng chiến. Truyện gồm có 2 phần: 1, Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; 2, Mị và A Phủ ở khu dukích Phiềng Sa. Phần thứ nhất là cảm động nhất, khi tác giả nói về bi kịch và sự vùngdậy của nhân vật Mị. 1. Cuộc đời của Mị đầy nước mắt. Khi Mị biết cuốc nương, mẹ Mị mất đã lâurồi, bố Mị đã già. Món nợ truyền kiếp đang đè nặng lên tầm hồn Mị. Năm nào hai bốcon Mị cũng phải trả nợ lãi một nương ngô cho thống lí Pá Tra. Mị làm nương giỏi,thổi sáo hay, nhiều chàng trai mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Hạnh phúc, tình yêuvà tuổi xuân của Mị đã bị chà đạp. Mị đã bị thằng A Sử, con trai Pá Tra bắt cóc đemvề cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Bố Mị chỉ còn biết khócvà cất lời than: Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờngười ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!. Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra từ cái tết ấy... Bố Mị đã già, đãkhổ lại càng cô đơn khi Mị trở thành con trâu, con ngựa nhà thống lí. Như một nụ hoaxuân chưa kịp nở đã bị héo tàn, Mị đau khổ quá chừng Mặt buồn rười rượi. Nơi Mịở là một cái buồng kín mít chỉ có một ô cửa sổ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấytrăng trắng, không biết là sương hay nắng! Mị phải làm quần quật suốt đêm ngày, lúchái củi, lúc bung ngô, lúc đi nương, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay đểtước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế! Đau khổ quá, Mị như kẻvô cảm vô hồn, ngày càng không nói, lũi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Baomùa xuân đã trôi qua, Mị tưởng mình cũng là con trâu con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ,biết đi làm mà thôi!. Như một linh hồn chết Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa. Hìnhảnh Mị cúi mặt quay sợi đay bên tảng đá, đầy ám ảnh, gợi lên trong lòng ta nhiềuthương xót mênh mông về một kiếp người oan khổ - con dâu gạt nợ! 2. Mị là một người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Hàng tháng trời, đêm nàoMị cũng khóc. Mị không muốn làm kiếp con dâu gạt nợ. Mị phải ăn lá ngón để tự tử.Mị trốn về nhà, quỳ lạy bố úp mặt xuống đất, nức nở. Mị chết nhưng nợ quan vẫncòn, bố đã già, đã ốm yếu quá rồi, lấy ai làm nương ngô giả được nợ? Mị không nỡchết! Mị không thể chết! Thương bố đã già yếu. Mị chết thì bố Mị “còn khổ hơn baonhiêu lần bây giờ nữa”. Quẳng nắm lá ngón xuống đất, Mị nghe bố nói, bưng mặtkhóc, Mị đành trở lại nhà thống lí, cam chịu mọi cay cực, đau khổ. Thương cha mà Mịnhận hết mọi đau khổ vào mình. Lòng hiếu thảo, đức hi sinh của người con gái vùngrẻo cao thật là đẹp, đáng quý trọng. 3. Cứ tưởng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Nhưng Mị vẫn còntrẻ. Tết lại đến. Ngoài đầu núi đã có ai đó “thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Nghe tiếng sáovọng lại, Mị “thiết tha bồi hồi”. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị nhẩm thẩm bàihát của người đang thổi sáo: “… Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu”. Mị “nổi loạn” lén lấy hũ rượu “cứ uống ừng ực từng bát”. Mị say, ngồi lịmmặt… Mị nhớ lại thời con gái. Mị thấy lòng mình “phơi phới trở lại”, rồi đột nhiên“vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình của traigái làng Mèo đã “đánh thức” bao nỗi khao khát về tình yêu và hạnh phúc của ngườiphụ nữ bất hạnh này! Mị ý thức mãnh liệt: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đichơi…”. Có biết bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Mị cay đắng nghĩđến thân phận mình: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.Nước mắt Mị ứa ra. Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay! Tiếng sáogọi bạn yêu lại làm cho lòng Mị bồi hồi: “Anh ném pao, em không bắt Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Mị xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cáiváy hoa… Những hành động ấy diễn ra ngay trước mắt thằng A Sử. Mị phải trả giáđau đớn. Thằng A Sử đã trói đứng Mị suốt đêm trong buồng bằng một thúng sợi đay.Hắn còn quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”.Suốt đêm, Mị “lúc mê, lúc tỉnh”. Mị sợ quá, cựa quậy “xem mình còn sống hay chết”.Có lúc Mị “vùng bước đi” chập chờn theo tiếng sáo, nhưng chân tay đang bị trói “đaukhông cựa được”, “đau nhức”, “đau dứt từng mảnh thịt”. Nghe tiếng ngựa nhai cỏ, gãichân, Mị đau khổ thổn thức “nghĩ mình không bằng con ngựa”. Tô Hoài miêu tả tâm trạng, phân tích tâm lí của Mị một cách sâu sắc tinh tế quatiếng sáo đêm tình mùa xuân. Mị khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc biết bao!Mị có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Tác giả đã vạch trần bộ mặt ghê tởm củathằng A Sử và chỉ rõ: việc bắt Mị làm dâu gạt nợ là một tệ nạn xã hội vô cùng dã man.Hành động “nổi loạn” của Mị đã cho thấy không có uy quyền nào, con ma nào có thểlàm lụi tàn được, vùi giập được nỗi khao khát tình yêu, hạnh phúc trong lòng ngườiphụ nữ trẻ, người con dâu gạt nợ. 4. Nhờ một chuyện tình cờ mà Mị được sống sót, không bị chết rũ xương trongbuồng như người đàn bà nọ. M ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân tích nhân vật Mị trong truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài (giai đoạn Mị ở Hồng Ngài, trong nhà thống lý Pá Tra) Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (giai đoạn Mị ở Hồng Ngài, trong nhà thống lý Pá Tra) Tô Hoài là nhà văn Hà Nội, sinh năm 1920, tự học mà thành tài. Khi bước vàotuổi xưa nay hiếm, ông đã có trên 100 tác phẩm. Trang văn xuôi của ông giàu chấtthơ, viết hay về phong tục sinh hoạt, có tài tả cảnh với lối kể chuyện sinh động, hómhỉnh, đậm đà. Ông viết thành công về truyện thiếu nhi, về đề tài miền núi. Dế Mènphiêu lưu kí, Truyện Tây Bắc, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Miền Tây,v.v... lànhững tác phẩm đặc sắc của ông được bạn đọc gần xa yêu thích. Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, một chuyến đi dàihơn nửa năm. Ông đã viết truyện Vợ chồng A Phủ, qua đó nói lên sự thống khổ củangười Mèo ở Tây Bắc và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một lòngquyết tâm đi theo kháng chiến. Truyện gồm có 2 phần: 1, Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; 2, Mị và A Phủ ở khu dukích Phiềng Sa. Phần thứ nhất là cảm động nhất, khi tác giả nói về bi kịch và sự vùngdậy của nhân vật Mị. 1. Cuộc đời của Mị đầy nước mắt. Khi Mị biết cuốc nương, mẹ Mị mất đã lâurồi, bố Mị đã già. Món nợ truyền kiếp đang đè nặng lên tầm hồn Mị. Năm nào hai bốcon Mị cũng phải trả nợ lãi một nương ngô cho thống lí Pá Tra. Mị làm nương giỏi,thổi sáo hay, nhiều chàng trai mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Hạnh phúc, tình yêuvà tuổi xuân của Mị đã bị chà đạp. Mị đã bị thằng A Sử, con trai Pá Tra bắt cóc đemvề cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Bố Mị chỉ còn biết khócvà cất lời than: Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờngười ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!. Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra từ cái tết ấy... Bố Mị đã già, đãkhổ lại càng cô đơn khi Mị trở thành con trâu, con ngựa nhà thống lí. Như một nụ hoaxuân chưa kịp nở đã bị héo tàn, Mị đau khổ quá chừng Mặt buồn rười rượi. Nơi Mịở là một cái buồng kín mít chỉ có một ô cửa sổ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấytrăng trắng, không biết là sương hay nắng! Mị phải làm quần quật suốt đêm ngày, lúchái củi, lúc bung ngô, lúc đi nương, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay đểtước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế! Đau khổ quá, Mị như kẻvô cảm vô hồn, ngày càng không nói, lũi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Baomùa xuân đã trôi qua, Mị tưởng mình cũng là con trâu con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ,biết đi làm mà thôi!. Như một linh hồn chết Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa. Hìnhảnh Mị cúi mặt quay sợi đay bên tảng đá, đầy ám ảnh, gợi lên trong lòng ta nhiềuthương xót mênh mông về một kiếp người oan khổ - con dâu gạt nợ! 2. Mị là một người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Hàng tháng trời, đêm nàoMị cũng khóc. Mị không muốn làm kiếp con dâu gạt nợ. Mị phải ăn lá ngón để tự tử.Mị trốn về nhà, quỳ lạy bố úp mặt xuống đất, nức nở. Mị chết nhưng nợ quan vẫncòn, bố đã già, đã ốm yếu quá rồi, lấy ai làm nương ngô giả được nợ? Mị không nỡchết! Mị không thể chết! Thương bố đã già yếu. Mị chết thì bố Mị “còn khổ hơn baonhiêu lần bây giờ nữa”. Quẳng nắm lá ngón xuống đất, Mị nghe bố nói, bưng mặtkhóc, Mị đành trở lại nhà thống lí, cam chịu mọi cay cực, đau khổ. Thương cha mà Mịnhận hết mọi đau khổ vào mình. Lòng hiếu thảo, đức hi sinh của người con gái vùngrẻo cao thật là đẹp, đáng quý trọng. 3. Cứ tưởng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Nhưng Mị vẫn còntrẻ. Tết lại đến. Ngoài đầu núi đã có ai đó “thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Nghe tiếng sáovọng lại, Mị “thiết tha bồi hồi”. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị nhẩm thẩm bàihát của người đang thổi sáo: “… Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu”. Mị “nổi loạn” lén lấy hũ rượu “cứ uống ừng ực từng bát”. Mị say, ngồi lịmmặt… Mị nhớ lại thời con gái. Mị thấy lòng mình “phơi phới trở lại”, rồi đột nhiên“vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình của traigái làng Mèo đã “đánh thức” bao nỗi khao khát về tình yêu và hạnh phúc của ngườiphụ nữ bất hạnh này! Mị ý thức mãnh liệt: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đichơi…”. Có biết bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Mị cay đắng nghĩđến thân phận mình: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.Nước mắt Mị ứa ra. Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay! Tiếng sáogọi bạn yêu lại làm cho lòng Mị bồi hồi: “Anh ném pao, em không bắt Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Mị xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cáiváy hoa… Những hành động ấy diễn ra ngay trước mắt thằng A Sử. Mị phải trả giáđau đớn. Thằng A Sử đã trói đứng Mị suốt đêm trong buồng bằng một thúng sợi đay.Hắn còn quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”.Suốt đêm, Mị “lúc mê, lúc tỉnh”. Mị sợ quá, cựa quậy “xem mình còn sống hay chết”.Có lúc Mị “vùng bước đi” chập chờn theo tiếng sáo, nhưng chân tay đang bị trói “đaukhông cựa được”, “đau nhức”, “đau dứt từng mảnh thịt”. Nghe tiếng ngựa nhai cỏ, gãichân, Mị đau khổ thổn thức “nghĩ mình không bằng con ngựa”. Tô Hoài miêu tả tâm trạng, phân tích tâm lí của Mị một cách sâu sắc tinh tế quatiếng sáo đêm tình mùa xuân. Mị khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc biết bao!Mị có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Tác giả đã vạch trần bộ mặt ghê tởm củathằng A Sử và chỉ rõ: việc bắt Mị làm dâu gạt nợ là một tệ nạn xã hội vô cùng dã man.Hành động “nổi loạn” của Mị đã cho thấy không có uy quyền nào, con ma nào có thểlàm lụi tàn được, vùi giập được nỗi khao khát tình yêu, hạnh phúc trong lòng ngườiphụ nữ trẻ, người con dâu gạt nợ. 4. Nhờ một chuyện tình cờ mà Mị được sống sót, không bị chết rũ xương trongbuồng như người đàn bà nọ. M ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
vợ chồng a phủ tô hoài nghị luận văn lớp 12 ôn thi đại học môn văn nghị luận văn 12 phân tích văn học giảng văn 12 văn mẫu lớp 12Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 790 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật thống lí Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
7 trang 311 0 0 -
6 trang 173 0 0
-
Ý nghĩa phê phán sâu kín của trích đoạn phóng sự Nghệ thuật băm thịt gà
3 trang 161 2 0 -
Nghị luận xã hội chủ đề: Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ biết dành phần ai
2 trang 74 0 0 -
Qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ, hãy phân tích nỗi khổ của người nông dân Tây Bắc
12 trang 72 0 0 -
Phân tích và chứng minh chất thép trong tập thơ Nhật kí trong tù
3 trang 62 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
25 trang 60 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hành động cởi trói của Mị trong Vợ chồng A Phủ
24 trang 53 0 0 -
Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội - Nguyễn Khải
10 trang 49 0 0