Danh mục

Phân tích quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất(p1)

Số trang: 19      Loại file: pdf      Dung lượng: 306.19 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thực tiến cho thấy, sự phát triển kinh tế – xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Điều khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh nước ta trong gian đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực phải chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân tích quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất(p1) A. ĐẶT VẤN ĐỀ Sau Đại hội toàn quốc lần thứ IX chúng ta bước vào thời kỳ phát triểnmới thời kỳ “đầy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ” định hướngphát triển nhằm mục tiêu “xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chấtkỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp vớitrình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần đượcnâng cao quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằngvăn minh”. Không phải ngẫu nhiên việc nghiên cứu quy luật quan hệ sản xuấtphù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trongnhững nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội mà chúng tađang tiến hành hôm nay. Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không nhữnglà nội dung của công cuộc đổi mới, mà hơn thế nữa nó là công cụ, là phương tiệnđể nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của chủ nghĩaxã hội ở nước ta một phần phụ thuộc vào việc xây dựng này tốt hay không. Mộtxã hội phát triển được đánh giá từ trình độ của lực lượng sản xuất và sự kết hợphài hoà giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thời đại ngày nay trình độkhoa học kỹ thuật đã phát triển mạnh mẽ song quan hệ sản xuất phù hợp vớitính chất của lực lượng sản xuất vẫn là cơ sở chính cho sự phát triển của nó. Dovậy vấn đề quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ pháttriển của lực lượng sản xuất vẫn là một trong những vấn đề nan giải mà chúngta cần phải quan tâm và giải quyết. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định rằng lực lượng sản xuất có vaitrò quyết định đối với quan hệ sản xuất và ngược lại, có thể thúc đầy hoặc kìmhãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vấn đề này từng là bài học đắt giátrong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự tác động trở lại của cácyếu tố của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất khá phong phú và phứctạp, nhất là trong những điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay. Vấn đề quan hệ sản xuất có tác động thúc đầy hay kìm hãm sự phát triểncủa lực lượng sản xuất đã được Đảng ta nhận thức và vận dụng đúng đắn trongquá trình lãnh đạo đất nước theo đường lối đổi mới. Đảng ta đã khẳng địnhrằng: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sảnxuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển khong đồng bộ, có nhữngyếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất “Đảng cộngsản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.”. Quan hệ sở hữuđược hiểu là “hình thức chiếm hữu của cải vật chất do lịch sử quy định, trong đóthể hiện quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất xã hội ”.Sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định đối với mọi hình thức khác củaquan hệ sản xuất, do vậy, khi hình thức của quan hệ sở hữu thay đổi sẽ kéo theosự thay đổi trong mọi hình thức khác của quan hệ sản xuất. Về nguyên tắc,những thay đổi của quan hệ sản xuất nói chung là nhằm thúc đầy lực lượng sảnxuất phát triển, do lực lượng sản xuất đã phát triển đòi hỏi nó phải thay đổi chophù hợp. Chúng ta đã từng phạm sai lầm là xây dựng nhiều yếu tố của quan hệ sảnxuất vượt trước so với lực lượng sản xuất mà chúng ta hiện có. Đó là việc chỉ chophép các hình thức sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể tồn tại, trong khi cáchình thức sở hữu khác đang còn có tác dụng mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuấtthì lại bị ngăn cấm, không được phép phát triển. việc đó đã dẫn đến tình trạngsản xuất bị đình đốn, không phát triển. Sau khi nhận thức được sai lầm này,chúng ta đã đổi mới đường lối chiến lược trong lĩnh vực kinh tế, đó là xác lập lạicác hình thức sở hữu, cho phép nhiều kiểu quan hệ sản xuất cùng tồn tại để mởđường cho lực lượng sản xuất phát triển. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢNXUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT. 1. Lực lượng sản xuất. Thực tiến cho thấy, sự phát triển kinh tế – xã hội phụ thuộc vào nhiều yếutố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Điềukhẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh nước ta trong gian đoạn đẩy mạnhcông nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác,nguồn nhân lực phải chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tếxã hội nước ta. Nhận thức rõ điều đó Đảng ta xác định con người vừa là mụctiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội bền vững. Đây là nguồn lực củamọi nguồn lực, nhân tố quan trọng bậc nhất để đưa nước ta nhanh chóng trởthành một nước công nghiệp phát triển. trong công cuộc công nghiệp hoá, hiệnđại hoá đất nước, Đảng ta “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơbản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, coi việc “Nâng cao dân trí, bồidưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyếtđịnh thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ...

Tài liệu được xem nhiều: