PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIẢNG VĂN HỌC - PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIẢNG TÁC PHẨM VĂN HỌC 12
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 172.23 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Khái niệm Bình giảng cũng là một kiểu bài phân tích văn học nhưng là kiểu bài phân tích đặc biệt. Người viết cảm thụ văn chương theo cách riêng của mình, vừa phân tích vừa giảng giải, vừa bình cái hay, cái đẹp của thơ văn để cho người đọc cùng tán thưởng về tư tưởng và nghệ thuật của một đoạn văn, đoạn thơ hay một tác phẩm trọn vẹn. Trong nhà trường, những đề văn bình giảng thường chỉ hướng về một đoạn thơ hay, một đoạn văn hay, một bài thơ ngắn đặc sắc. Thơ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIẢNG VĂN HỌC - PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIẢNG TÁC PHẨM VĂN HỌC 12 PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIẢNG VĂN HỌC - PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIẢNG TÁC PHẨM VĂN HỌC 12 BÀI THAM KHẢO Khái niệm Bình giảng cũng là một kiểu bài phân tích văn học nhưng là kiểu bài phân tíchđặc biệt. Người viết cảm thụ văn chương theo cách riêng của mình, vừa phân tích vừagiảng giải, vừa bình cái hay, cái đẹp của thơ văn để cho người đọc cùng tán thưởng vềtư tưởng và nghệ thuật của một đoạn văn, đoạn thơ hay một tác phẩm trọn vẹn. Trongnhà trường, những đề văn bình giảng thường chỉ hướng về một đoạn thơ hay, mộtđoạn văn hay, một bài thơ ngắn đặc sắc. Thơ văn không hay, hoặc có ít giá trị tưtưởng nghệ thuật thì không thể bình giảng được. Đã có những đề văn bình giảng nhưsau: Bình giảng bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Bình giảng bài thơ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị Những đề dạng như vậy tuy không sai, nhưng với các tác phẩm dài như thế,nên đưa về phân tích văn học. Phân biệt giữa phân tích văn học và bình giảng Phân tích tác phẩm văn học là từ sự phân tích đặc điểm tiêu biểu về nội dungvà nghệ thuật để làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm, hoặc làm sáng tỏ một vấn đề, mộtkhía cạnh của tác phẩm. Ví dụ: + Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (mục đích là làm sáng tỏ và đánhgiá giá trị của tác phẩm). + Phân tích vẻ đẹp lãng mạn trong truyện Mảnh trăng cuối rừng của NguyễnMinh Châu (Cái đích của bài văn là làm sáng tỏ một khía cạnh của tác phẩm). + Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị để cho thấy giá trị nhân đạocủa truyện Vợ chồng A Phủ (Đích đi tới là làm sáng tỏ một vấn đề của tác phẩm). Bình giảng là từ việc giảng và bình các chi tiết ngôn ngữ nghệ thuật, tư tưởngtình cảm chứa trong tác phẩm hay một phần của tác phẩm, làm rõ cái hay, cái đẹp củavăn chương. Phân tích và bình giảng đều phải sử dụng các thao tác sau: phân tích, giảnggiải – trích dẫn, so sánh đối chiếu, liên tưởng mở rộng, bình, đánh giá. Tuy nhiên mứcđộ, sắc thái có chỗ hơi khác nhau. + Bình giảng: yếu tố bình phải sắc, đậm hơn. + Phân tích: đòi hỏi người viết phải phân tích, giảng giải kĩ hơn, sâu hơn cácchi tiết. Có những đề văn chỉ có hai câu thơ, nên người viết phải biết sử dụng các thaotác trên tinh thần “chẻ sợi tóc làm tư” mới có thể làm nên một bài văn 4, 5 trang. Ví dụ: Bình giảng hai câu thơ sau: Ôi những cánh đồng quê chảy máu, Dây thép gai đâm nát trời chiều. (Đất nước – Nguyễn Đình Thi) + Nói chung giọng văn, chất văn của hai kiểu bài phân tích văn học và bìnhgiảng phải lưu loát, uyển chuyển, mượt mà, giàu cảm xúc. Vốn dĩ câu thơ, câu văntrong đề bài bình giảng đưa ra đã hay, rất hay, rất đẹp, do đó người viết cũng phải diễnđạt bằng những lời văn, câu văn giàu hình ảnh, biểu cảm mới tương xứng. Các tiêu chí trên đây chỉ là sự khu biệt tương đối. Các bài văn mẫu hiện nay,xét cho cùng, các bài bình giảng cũng không khác gì bài phân tích; đặc biệt chất văn,giọng văn chưa được “bay”, thậm chí yếu tố bình (khen, chê) chưa có, chưa rõ. Đối với những bài ca dao ngắn, bài tứ tuyệt hoặc bát cú Đường luật thì phântích hay bình giảng đều có thể viết giống nhau, tương tự nhau. Ví dụ: + Bình giảng bài ca dao Bài ca chàng thợ mộc. + Bình giảng bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh. + Phân tích bài thơ Canh cá trầu của Chế Lan Viên. Phương pháp làm bài cụ thể Bình giảng từng chi tiết, từng bộ phận, từng phần một. Giảng trước, bình sau ở mỗi chi tiết, bộ phận, từng phần. Phải bám vào ngôn ngữ, hình ảnh… để giảng. Và trên cơ sở đó để bình. Cần có kiến thức lí luận văn học và thuộc nhiều thơ văn để so sánh đối chiếu,liên tưởng mở rộng khi giảng và bình, không thể khen, chê một cách vu vơ, tùy tiện. Bố cục dàn ý một bài bình giảng cũng giống như bài phân tích văn học. DƯỚI ĐÂY LÀ BÀI BÌNH CỦA CHẾ LAN VIÊN VỀ THƠ TỐ HỮU “Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất nhạc, anh nắmrất vững cái âm điệu, vần điệu của dân tộc. Tố Hữu không những suy nghĩ qua âmnhạc, trong âm nhạc, mà anh còn suy nghĩ bằng âm nhạc nữa: Ai về Hưng Hóa Ai xuống Khu Ba Ai vào Khu Bốn Đường ta đó, tự do cuồn cuộn Bốt đồn Tây đã cuốn sạch rồi!... Phân tích theo lối hình thức, thì cả đoạn này, chỉ là những tên địa danh kèmtheo ở đầu chữ Ai. Nhưng hãy đọc to lên, hãy để cho hồn thơ, nhạc điệu lôi cuốn ta đi,ta sẽ thấy rằng nhạc điệu ở đây đã tạo cho ta một tình cảm rất sâu: đó là lòng yêu đắmsay đất nước, yêu như tát mãi không cạn, gọi mãi không cùng, yêu như muốn nêu tênlên mãi mà gọi, chỉ một cái tên thôi cũng đủ chấn động lòng rồi. Mỗi tiếng “Ai” kianhư đào sâu thêm tình yêu đó. Rất nhiều lúc tác giả dùng lối gọi tên như vậy: “Tháng Tám vùng lên Huế củata – Quảng Phong ơi, Hương Thủy, Hương Trà”, “Chào những buồm nâu thuyền câuDiêm Phố! Nhớ nhau chăng, hỡi Hanh Cát, Hanh Cù?”… Cho cả đến những lần chỉ cótên là tên: Po Tào, Mường Khủa, Mường Thanh Mường La, Hát Lót, chân anh đã từng. Và lần nào tác giả cũng thành công – Chỉ vì sau cái nhạc điệu dân tộc, anh đãbiết để một quả tim dân tộc, sau âm thanh là có cả tâm hồn. Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khôkhan. Rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn.Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru ngườitrong nhạc, vừa thức người bằng ý. Ai đi Nam Bộ Tiền Giang, Hậu Giang Ai vô thành phố Hồ Chí Minh Rực rỡ tên vàng… Ai về thăm bưng biền Đồng Tháp Việt Bắc, miền Nam, mồ ma giặc Pháp Nơi chôn nhau cắt rốn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIẢNG VĂN HỌC - PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIẢNG TÁC PHẨM VĂN HỌC 12 PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIẢNG VĂN HỌC - PHÂN TÍCH VÀ BÌNH GIẢNG TÁC PHẨM VĂN HỌC 12 BÀI THAM KHẢO Khái niệm Bình giảng cũng là một kiểu bài phân tích văn học nhưng là kiểu bài phân tíchđặc biệt. Người viết cảm thụ văn chương theo cách riêng của mình, vừa phân tích vừagiảng giải, vừa bình cái hay, cái đẹp của thơ văn để cho người đọc cùng tán thưởng vềtư tưởng và nghệ thuật của một đoạn văn, đoạn thơ hay một tác phẩm trọn vẹn. Trongnhà trường, những đề văn bình giảng thường chỉ hướng về một đoạn thơ hay, mộtđoạn văn hay, một bài thơ ngắn đặc sắc. Thơ văn không hay, hoặc có ít giá trị tưtưởng nghệ thuật thì không thể bình giảng được. Đã có những đề văn bình giảng nhưsau: Bình giảng bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Bình giảng bài thơ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị Những đề dạng như vậy tuy không sai, nhưng với các tác phẩm dài như thế,nên đưa về phân tích văn học. Phân biệt giữa phân tích văn học và bình giảng Phân tích tác phẩm văn học là từ sự phân tích đặc điểm tiêu biểu về nội dungvà nghệ thuật để làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm, hoặc làm sáng tỏ một vấn đề, mộtkhía cạnh của tác phẩm. Ví dụ: + Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (mục đích là làm sáng tỏ và đánhgiá giá trị của tác phẩm). + Phân tích vẻ đẹp lãng mạn trong truyện Mảnh trăng cuối rừng của NguyễnMinh Châu (Cái đích của bài văn là làm sáng tỏ một khía cạnh của tác phẩm). + Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị để cho thấy giá trị nhân đạocủa truyện Vợ chồng A Phủ (Đích đi tới là làm sáng tỏ một vấn đề của tác phẩm). Bình giảng là từ việc giảng và bình các chi tiết ngôn ngữ nghệ thuật, tư tưởngtình cảm chứa trong tác phẩm hay một phần của tác phẩm, làm rõ cái hay, cái đẹp củavăn chương. Phân tích và bình giảng đều phải sử dụng các thao tác sau: phân tích, giảnggiải – trích dẫn, so sánh đối chiếu, liên tưởng mở rộng, bình, đánh giá. Tuy nhiên mứcđộ, sắc thái có chỗ hơi khác nhau. + Bình giảng: yếu tố bình phải sắc, đậm hơn. + Phân tích: đòi hỏi người viết phải phân tích, giảng giải kĩ hơn, sâu hơn cácchi tiết. Có những đề văn chỉ có hai câu thơ, nên người viết phải biết sử dụng các thaotác trên tinh thần “chẻ sợi tóc làm tư” mới có thể làm nên một bài văn 4, 5 trang. Ví dụ: Bình giảng hai câu thơ sau: Ôi những cánh đồng quê chảy máu, Dây thép gai đâm nát trời chiều. (Đất nước – Nguyễn Đình Thi) + Nói chung giọng văn, chất văn của hai kiểu bài phân tích văn học và bìnhgiảng phải lưu loát, uyển chuyển, mượt mà, giàu cảm xúc. Vốn dĩ câu thơ, câu văntrong đề bài bình giảng đưa ra đã hay, rất hay, rất đẹp, do đó người viết cũng phải diễnđạt bằng những lời văn, câu văn giàu hình ảnh, biểu cảm mới tương xứng. Các tiêu chí trên đây chỉ là sự khu biệt tương đối. Các bài văn mẫu hiện nay,xét cho cùng, các bài bình giảng cũng không khác gì bài phân tích; đặc biệt chất văn,giọng văn chưa được “bay”, thậm chí yếu tố bình (khen, chê) chưa có, chưa rõ. Đối với những bài ca dao ngắn, bài tứ tuyệt hoặc bát cú Đường luật thì phântích hay bình giảng đều có thể viết giống nhau, tương tự nhau. Ví dụ: + Bình giảng bài ca dao Bài ca chàng thợ mộc. + Bình giảng bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh. + Phân tích bài thơ Canh cá trầu của Chế Lan Viên. Phương pháp làm bài cụ thể Bình giảng từng chi tiết, từng bộ phận, từng phần một. Giảng trước, bình sau ở mỗi chi tiết, bộ phận, từng phần. Phải bám vào ngôn ngữ, hình ảnh… để giảng. Và trên cơ sở đó để bình. Cần có kiến thức lí luận văn học và thuộc nhiều thơ văn để so sánh đối chiếu,liên tưởng mở rộng khi giảng và bình, không thể khen, chê một cách vu vơ, tùy tiện. Bố cục dàn ý một bài bình giảng cũng giống như bài phân tích văn học. DƯỚI ĐÂY LÀ BÀI BÌNH CỦA CHẾ LAN VIÊN VỀ THƠ TỐ HỮU “Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất nhạc, anh nắmrất vững cái âm điệu, vần điệu của dân tộc. Tố Hữu không những suy nghĩ qua âmnhạc, trong âm nhạc, mà anh còn suy nghĩ bằng âm nhạc nữa: Ai về Hưng Hóa Ai xuống Khu Ba Ai vào Khu Bốn Đường ta đó, tự do cuồn cuộn Bốt đồn Tây đã cuốn sạch rồi!... Phân tích theo lối hình thức, thì cả đoạn này, chỉ là những tên địa danh kèmtheo ở đầu chữ Ai. Nhưng hãy đọc to lên, hãy để cho hồn thơ, nhạc điệu lôi cuốn ta đi,ta sẽ thấy rằng nhạc điệu ở đây đã tạo cho ta một tình cảm rất sâu: đó là lòng yêu đắmsay đất nước, yêu như tát mãi không cạn, gọi mãi không cùng, yêu như muốn nêu tênlên mãi mà gọi, chỉ một cái tên thôi cũng đủ chấn động lòng rồi. Mỗi tiếng “Ai” kianhư đào sâu thêm tình yêu đó. Rất nhiều lúc tác giả dùng lối gọi tên như vậy: “Tháng Tám vùng lên Huế củata – Quảng Phong ơi, Hương Thủy, Hương Trà”, “Chào những buồm nâu thuyền câuDiêm Phố! Nhớ nhau chăng, hỡi Hanh Cát, Hanh Cù?”… Cho cả đến những lần chỉ cótên là tên: Po Tào, Mường Khủa, Mường Thanh Mường La, Hát Lót, chân anh đã từng. Và lần nào tác giả cũng thành công – Chỉ vì sau cái nhạc điệu dân tộc, anh đãbiết để một quả tim dân tộc, sau âm thanh là có cả tâm hồn. Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khôkhan. Rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn.Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru ngườitrong nhạc, vừa thức người bằng ý. Ai đi Nam Bộ Tiền Giang, Hậu Giang Ai vô thành phố Hồ Chí Minh Rực rỡ tên vàng… Ai về thăm bưng biền Đồng Tháp Việt Bắc, miền Nam, mồ ma giặc Pháp Nơi chôn nhau cắt rốn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
ôn thi đại học môn văn nghị luận văn 12 phân tích văn học giảng văn 12 văn mẫu lớp 12Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 790 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật thống lí Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
7 trang 311 0 0 -
Ý nghĩa phê phán sâu kín của trích đoạn phóng sự Nghệ thuật băm thịt gà
3 trang 161 2 0 -
Nghị luận xã hội chủ đề: Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ biết dành phần ai
2 trang 74 0 0 -
Phân tích và chứng minh chất thép trong tập thơ Nhật kí trong tù
3 trang 62 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
25 trang 60 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hành động cởi trói của Mị trong Vợ chồng A Phủ
24 trang 53 0 0 -
Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội - Nguyễn Khải
10 trang 49 0 0 -
Phân tích đoạn trích Ông già và biển cả của nhà văn Hê-Minh-Uê
23 trang 44 0 0 -
Phân tích tâm trạng của Chí Phèo khi bị Thị Nở từ chối chung sống
4 trang 42 0 0