Danh mục

Pháp luật về xã hội hóa tổ chức thi hành án dân sự trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 794.87 KB      Lượt xem: 24      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 1 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết đi vào phân tích một cách khái quát nhưng ưu và nhược điểm của từng loại mô hình để từ đó rút ra kết luận về mô hình phù hợp nhất trong thời điểm hiện tại.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Pháp luật về xã hội hóa tổ chức thi hành án dân sự trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “Phát triển kinh tế Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới” PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRONG XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ThS. Nguyễn Thị Tuyền, Trần Quốc Yên TÓM TẮT Xã hội hóa tổ chức thi hành án dân sự (XHH tổ chức THADS) là một chủ trương đã được Đảng và Nhà nước đặt rất nhiều kỳ vọng. Việc thành lập nên các tổ chức thi hành án (THA) tư nhân sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc lựa chọn tổ chức THA bảo vệ quyền cũng như lợi ích hợp pháp cho mình. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là nên lựa chọn mô hình tổ chức THADS như thế nào cho phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị cũng như trình độ dân trí của người dân là việc mà các nhà làm luật cần phải cân nhắc. Chính vì lẽ đó, bài viết đi vào phân tích một cách khái quát nhưng ưu và nhược điểm của từng loại mô hình để từ đó rút ra kết luận về mô hình phù hợp nhất trong thời điểm hiện tại. Từ khóa: Xã hội hóa; tổ chức thi hành án dân sự. ABSTRACT LAW ON THE SOCIALIZATION OF CIVIL JUDGEMENT ENFORCEMENT ORGANIZATION IN THE TREND OF INTERNATIONAL ECONOMIC INTEGRATION The socialization (XHH) of civil judgment enforcement (THADS) is a policy that has been fully expected by the Party and State. The establishment of private judgment enforcement organizations (THA) can create favorable conditions for people to choose a THA organization which helps to protect their legitimate rights and interests. In order to fit in the economic and political situation as well as people’s intellectual levels, the selection of a proper THADS organization model should, however, be put into careful consideration. The paper generally aims to analyze the pros and cons of various models so that a final conclusion on the best-suited model can be made. 1. MỞ ĐẦU Lần đầu tiên vấn đề XHH được Đảng ta đề cập tại Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa VIII. Nghị quyết Hội nghị chủ trương: “Thí điểm việc XHH một số lĩnh vực dịch vụ, y tế, giáo dục, khoa học và hoạt động văn hóa, thể thao… trước hết là ở các thành phố, các khu công nghiệp…”33. Qua các Đại hội IX, X, XI, chủ trương ấy vẫn được Đảng khẳng định. Văn kiện Đại hội XI nhấn mạnh: “Đẩy mạnh XHH các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”34. Trên cơ sở đó, Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó phải“Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”. Trong hoạt động bổ trợ tư pháp, phải“nghiên cứu chế định Thừa phát lại (TPL): trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở đó tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”. 33 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII), nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tr.41 34 Lê Văn Hòe (2015), Sự cần thiết ban hành luật về XHH và những nội dung chủ yếu, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Tr.24-28. 236 Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “Phát triển kinh tế Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới” Có thể thấy, việc XHH tổ chức THADS trong đó phát triển tổ chức TPL đã, đang được Đảng, Nhà nước quan tâm và triển khai. Vai trò của TPL ngày càng được khẳng định, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong đời sống dân sự, trong quan hệ với cơ quan nhà nước và trong các quá trình tố tụng, giúp giảm tải công việc cho cơ quan THADS và Tòa án, tạo điều kiện để hoạt động tư pháp đúng pháp luật, nhanh hơn, hiệu quả hơn. Ngoài ra, XHH THADS còn nhằm nâng cao trách nhiệm, tạo điều kiện cho người dân, xã hội tham gia vào hoạt động tư pháp, người dân có quyền lựa chọn tổ chức THA cho mình, việc cạnh tranh sẽ làm tăng chất lượng dịch vụ, các cơ quan THADS của Nhà nước sẽ có động lực đổi mới phong cách, lề lối làm việc, khắc phục quan liêu, sách nhiễu, tiêu cực trong THA. Vì vậy, XHH tổ chức THADS là việc huy động nguồn lực, nêu cao trách nhiệm của người dân (đương sự) cũng như có thể chuyển giao cho cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động THADS. Từ đó, Nhà nước không cần thiết phải tham dự vào một công việc mang tính “tư”35, mà giao cho một chủ thể ngoài Nhà nước hỗ trợ, tổ chức cho các bên thực hiện theo bản án là hợp lý và hợp logic. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Cách tiếp cận - Tiếp cận lịch sử: Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển TPL ở Việt Nam, những đóng góp của TPL đối với hoạt động của cơ quan nhà nước và cung cấp dịch vụ pháp lý cho người dân. - Tiếp cận động: Nghiên cứu xu thế phát triển có tính phổ biến của nghề TPL ở các nước trên thế giới đồng thời nghiên cứu, dự báo xu hướng phát triển nghề TPL ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế, cải cách toàn diện kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng 2.2. Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, nhóm tác giả áp dụng các phương pháp, kỹ thuật nghiên cứu như sau: (1) Phương pháp nghiên cứu tại chỗ: Nghiên cứu; rà soát đánh giá hệ thống văn bản pháp luật hiện hành; thu thập, nghiên cứu các tài liệu trong ngoài nước về các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của Bài viết. (2) Phương pháp so sánh: Nghiên cứu so sánh điểm tương đồng/khác biệt/đối lập của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về tổ chức và hoạt động TPL. (3) Phân tích, tổng hợp: Phân tích, tổng hợp đánh giá thông tin thu được từ hoạt động nghiên cứu để đ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: