Thông tin tài liệu:
Phật gia quyền còn có tên khác là La Hán Phật gia quyền lấy gốc tích xuất xứ võ Thiếu Lâm từ bài quyền đầu tiên La Hán Thập Bát Thủ(chữ Hán: 佛家拳; phiên âm latinh: Fut Gar (Kuen); đôi khi được dịch nghĩa là Buddha Fist hay Monk Family Fist), là tên của một võ phái của các vị Lạt Ma ở vùng Vân Nam và Tây Tạng là chủ yếu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phật gia quyền Phật gia quyềnPhật gia quyền còn có tên khác là La Hán Phật gia quyền lấy gốctích xuất xứ võ Thiếu Lâm từ bài quyền đầu tiên La Hán Thập Bát Thủ(chữ Hán: 佛家拳; phiên âm latinh: Fut Gar (Kuen); đôi khi được dịchnghĩa là Buddha Fist hay Monk Family Fist), là tên của một võ phái củacác vị Lạt Ma ở vùng Vân Nam và Tây Tạng là chủ yếu.Mục lục[ẩn] 1 Nguồn gốc và danh xưng 2 Đặc trưng kỹ pháp 3 Xem thêm 4 Sách tham khảo chính 5 Liên kết ngoài [sửa] Nguồn gốc và danh xưngTương truyền rằng võ phái này có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm vàchùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam.Thuyết khác lại cho rằng gốc phát tích của nó là chung một gốc vớiHồng Gia Quyền của Hồng Hy Quan và Vịnh Xuân Quyền của NghiêmVịnh Xuân tại thành phố Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông.Nguồn gốc môn phái không rõ ràng và có một vài kỹ thuật kỹ pháp liênquan đến Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến ở kỹ thuật trường kiều đại mã vàLa Hán quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam, cước pháp (đònchân) thì lại có liên quan một ít đến Bắc Thiếu Lâm.Theo thuyết khác, bộ môn này có nguồn gốc từ một ngôi chùa thuộccác môn đồ của Thiếu Lâm ở tỉnh Quảng Đông do các sư tăng trongchùa rút gọn tinh hoa quyền pháp của các hệ Nam quyền Quảng Đôngmà chủ yếu là Hồng Gia Quyền của Nam Thiếu Lâm nên rất thịnh hànhở vùng lưỡng Quảng (Quảng Đông & Quảng Tây).Bộ môn này có lan truyền sang các khu vực lân cận như Hồng Kông,Đài Loan và rất thịnh hành tại tỉnh Thanh Hóa miền Bắc Việt Namtrước 1954 và hiện đang lưu truyền phổ biến ở các khu vực Bắc Mỹ,Canada.[sửa] Đặc trưng kỹ phápĐây là một môn quyền thuật có nguồn gốc từ các phái võ miền NamTrung Hoa xuất xứ từ Nam Thiếu Lâm nên thuộc các bộ môn Namquyền.Về mặt kỹ pháp, Phật gia quyền sử dụng các loại thủ hình như các hệphái Nam quyền khác : quyền (đấm), chưởng (xòe bàn tay), trửu (cùichỏ), chỉ (các ngón tay xỉa), câu thủ (cổ tay), trảo (ức bàn tay và cácngón tay co lại), ... cũng có sử dụng đòn chân (cước pháp, thối pháp)của Bắc Thiếu Lâm nhưng lại đá thấp từ thắt lưng trở xuống và ít khinhảy cao đá như các bộ môn Trường quyền của Bắc Thiếu Lâm.Quyền pháp của Phật gia quyền tinh tuyển tinh hoa của các loại Namquyền như Hồng, Lưu, Lý, Mạc, Thái (Hung gar, Liu gar, Li gar, Mogar, Choy gar).Kỹ pháp đặc trưng vẫn là sử dụng Kiều pháp (đòn tay) như Hồng GiaQuyền, vẫn theo nguyên lý Ổn mã ngạnh kiều, trường kiều đại mã,đoản kiều tiểu mã nghĩa là Ngựa vững cầu cứng, ngựa lớn cầu dài,ngựa nhỏ cầu ngắn, diễn giải: bộ pháp (tấn pháp và cước pháp) vữngvàng và thủ pháp (đòn tay) chắc chắn, đánh đòn tay dài thì đứng tấn dàirộng, đánh đòn tay ngắn thì đứng bộ tấn hẹp.Do xuất phát từ Thiếu Lâm là quyền pháp của Phật gia nên bộ mônquyền này cũng tuân thủ theo các phép đánh nghiêm ngặt và phong tỏacẩn mật trong-ngoài trên-dưới, động tác chặt chẽ như các bộ môn ThiếuLâm quyền khác. Phong thái thể hiện cương cường ngoại tráng, bộ hình(bước tấn) di chuyển kín đáo và đầy sức lực hùng hậu. Đó là một bộmôn quyền chủ cương nhiều hơn nhu so với Thiếu Lâm quyền căn bảnlà cương nhu tương tế.