Danh mục

Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo cần gắn liền với đổi mới sáng tạo

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 1,023.67 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (CBCT) ngày càng khẳng định tầm quan trọng và vai trò của mình trong sự phát triển chung của nền kinh tế nước nhà. Công nghiệp chế biến, chế tạo muốn phát triển lâu dài và bền vững thì cần có đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế và xây dựng một nền kinh tế tự chủ vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo cần gắn liền với đổi mới sáng tạo Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Phát triển Công nghiệp chế biến, chế tạo cần gắn liền với đổi mới sáng tạo The development of the processing and manufacturing industry should be associated with innovation  Nguyễn Thị Thúy Chinh1,*, Nguyễn Phương Thảo1 1 Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh * Email: nguyenthuychinh86qui@gmail.com Tel: +84-975097786; Mobile: 09975097786 Tóm tắt: Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (CBCT) ngày càng khẳng định tầm quan trọng và vai trò của mình trong sự phát triển chung của nền kinh tế nước nhà. Công nghiệp chế biến, chế tạo muốn phát triển lâu dài và bền vững thì cần có đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế và xây dựng một nền kinh tế tự chủ vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Abstract: In recent years, the processing and manufacturing industry has increasingly affirmed its importance and role in the overall development of the country's economy. The processing and manufacturing industry wants to develop long-term and sustainably, it is necessary to innovate to improve the quality of economic growth, economic development and building an autonomous economy for the sake of wealthy people, strong country, just, democratic and civilized society. Từ khóa: Công nghiệp chế biến, chế tạo; Đổi mới sáng tạo; Công nghiệp hóa; Cách mạng công nghiệp Keywords: Manufacturing and processing industry; Creative innovation; Industrial; Industrial Revolution 1. Đặt vấn đề Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, từ khóa “Đổi mới sáng tạo”đang thu hút được sự chú ý và quan tâm của nhiều người không những ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Tại sao phát triển công nghiệp CBCT cần gắn liền với đổi mới sáng tạo? Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về sự phát triển của công nghiệp CBCT và hoạt động đổi mới sáng tạo ở Việt Nam thời gian gần đây. 1.1. Sự phát triển của công nghiệp CBCT trong những năm gần đây Sự thành công của các quốc gia như: Anh, Mỹ, Đức, Nhật Bản và Trung Quốc trong quá trình công nghiệp hóa nhờ sự phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp CBCT đã chứng tỏ phát triển ngành công nghiệp CBCT là con đường tất yếu của Việt Nam. Theo kinh nghiệm từ các nước đã từng thực hiện công nghiệp hoá thành công cho thấy, trong giai đoạn công nghiệp hoá, công nghiệp CBCT luôn phải giữ vững mức đóng góp trong GDP từ khoảng 20-30% trở lên. Trong 20 năm trở lại đây, ở các nước công nghiệp, công nghiệp CBCT vẫn luôn chiếm khoảng 20% trong GDP, dù là nước đã phát triển từ lâu hay mới nổi. Năm 2019, tỉ lệ sản xuất CBCT của Trung Quốc chiếm 27,1% GDP; Hàn Quốc: 25,3%; Thái Lan: 25,3%; Ma-lai-xi-a: 21,5%; Nhật Bản: 20,7%; Xin-ga-po: 19,8% và Đức: 19,4%, còn Việt Nam chỉ mới đạt mức 16,5%.[3] Giai đoạn 2016-2020, Việt Nam đang trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa. Nền kinh tế của đất nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt là thành công chuyển dịch cơ cấu từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp CBCT được xem như là động lực chính cho phát triển kinh tế, tạo ra của cải và vật chất cho xã hội, thay thế cho ngành nông nghiệp đang ngày càng giảm tỉ trọng đóng góp trong GDP, giúp đất nước tránh tụt hậu và tránh bẫy thu nhập trung bình. Tỷ trọng ngành công nghiệp CBCT trong GDP tăng lên từ 14,3% năm 2016 lên khoảng 16,9% năm 2020[2]. Vì vậy đã hình thành được một số ngành công nghiệp tiềm năng có quy mô lớn và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học - 2021 58 Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo . Theo số liệu trong báo cáo tình hình kinh tế, xã hội của Tổng cục thống kê[6], sản xuất công nghiệp trong quý IV/2020 có sự khởi sắc với tốc độ tăng giá trị tăng thêm đạt 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2020, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 3,36% so với năm 2019, trong đó đặc biệt công nghiệp CBCT tăng 5,82%, giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp năm 2020 ước tính tăng 3,36% so với năm trước (quý I tăng 5,1%; quý II tăng 1,1%; quý III tăng 2,34%; quý IV tăng 4,8%). Trong đó, ngành công nghiệp CBCT tăng 5,82% (quý I tăng 7,12%; quý II tăng 3,38%; quý III tăng 3,86%; quý IV tăng 8,63%). Theo báo cáo gần đây nhất, ngành công nghiệp quý I/2021 đạt mức tăng khá 6,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó công nghiệp CBCT tăng 9,45%, cao hơn tốc độ tăng 7,12% của cùng kỳ năm trước nhưng thấp hơn tốc độ tăng 14,30% của quý I/2018 và 11,52% của quý I/2019. Nguyên nhân chính do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 đang hoành hành trên toàn thế giới. Công nghiệp CBCT Việt Nam thời gian vừa qua đã có những chuyển biến tích cực. Tốc độ giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp CBCT dẫn đầu các ngành trong nền kinh tế. Mặc dù, năm 2020 tốc độ giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp CBCT có giảm nhiều so với năm 2019, nhưng cũng là do dịch bệnh COVID-19 làm ảnh hưởng chung tới toàn nền kinh tế của Việt Nam nói riêng và toàn thế giới nói chung. Hình 1. Biểu đồ so sánh tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành trong nền kinh tế Việt Nam 1.2. H ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: