Danh mục

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và vấn đề nâng cao năng suất lao động của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 585.18 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Là một quốc gia đang ở trong thời kỳ có cơ cấu dân số vàng. Việt Nam với nguồn nhân lực trẻ, dồi dào, có cơ hội tạo ra những bước phát triển kinh tế - xã hội, tái cơ cấu nền kinh tế và tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng năng suất lao động trong trong thời kỳ hội nhập quốc tế thì điểm mấu chốt là phải đặt việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với việc phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ; đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của lĩnh vực ngành nghề.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và vấn đề nâng cao năng suất lao động của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế HUFLIT International Conference On Ensuring A High-Quality Human Resource In The Modern Age - Oct 16, 2020 doi: 10.15625/vap.2020.0057 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Nguyễn Văn Quang1, Nguyễn Thị Hằng2 1 Trung tâm NCKT Miền Nam, Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2 Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Tài chính Maketting quang.mr@gmail.com, hangnguyen8520102@gmail.com TÓM TẮT: Là một quốc gia đang ở trong thời kỳ có cơ cấu dân số vàng. Việt Nam với nguồn nhân lực trẻ, dồi dào, có cơ hội tạo ra những bước phát triển kinh tế - xã hội, tái cơ cấu nền kinh tế và tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng năng suất lao động trong trong thời kỳ hội nhập quốc tế thì điểm mấu chốt là phải đặt việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với việc phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ; đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của lĩnh vực ngành nghề. Chất lương nguồn nhân lực Việt Nam theo đánh giá của Ngân hàng thế giới năm 2016 chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10) trong khi một số nước trong khu vực như Malaysia là 5,99/10, Thái Lan là 4,94/10; Việt Nam đứng thứ 11/12 nước ở châu Á tham gia xếp hạng. Ngoài ra chỉ số khác năng lực cạnh tranh xếp hạng 67/141 nước (2019); Nhân lực nước ta còn thiếu nhiều kỹ năng mềm như ngoại ngữ, công nghệ thông tin, kỹ năng làm việc nhóm… Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và cải thiện năng suất lao động, góp phần tạo động lực cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững. Từ khóa: Nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển nguồn nhân lực, năng suất lao động, lao động trình độ cao, hội nhập quốc tế. I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN A. Khái niệm Nhân lực chất lượng cao là một thuật ngữ của phát triển vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau như C. Mác quan niệm: Nền công nghiệp do toàn xã hội thực hiện một các tập thể và có kế hoạch lại càng cần có những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất (15, tr147). Mác rất chú trọng đến “những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm bắt nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn”. Trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học Việt Nam cũng đã đưa ra những quan niệm về “nhân lực chất lượng cao” tiêu biểu như GS.TS. Nguyễn Minh Hạc quan niệm “nguồn nhân lực chất lượng cao là đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, thực hiện việc ứng dụng vào điều kiện nước ta, là hạt nhân đưa lĩnh vực của mình vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa được mở rộng theo kiểu “vết dầu loang”… Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là nói đến tổng thể nguồn nhân lực của một quốc gia, trong đó nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh túy nhất, có chất lượng nhất. Vì vậy, khi bàn về nhân lực chât lượng cao không thể đặt nó trong tổng thể chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cũng chính là để nâng cao chất lượng tổng thể nguồn nhân lực của quốc gia đó. Kế thừa và khắc phục các ưu nhược điểm của nhiều quan niệm khác nhau, cách hiểu khác nhau thì có thể cho rằng “ nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của nguồn nhân lực, có trình độ học vân và chuyên môn kỹ thuật cao (trừ một số trường hợp không qua đào tạo); có kỹ năng lao động giỏi và có tính thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao*”. B. Năng suất lao động 1. Khái niệm† Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực thông qua so sánh giữa kết quả sản xuất với lao động sử dụng để sản xuất ra nó. Khối lượng đầu vào phản ánh thời gian, kỹ năng, công sức của lao động, được đo bằng tổng thời gian hoặc tổng số lao động được sử dụng. * TS. Lê Quang Hùng, thành viên Ban Chủ nhiệm Đề tài: “Phát triển nhân lực chất lượng cao vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung”. Luận án Tiến sỹ kinh tế năm 2012. † Trung tâm Năng suất Việt Nam, Từ điển thuật ngữ năng suất và chất lượng. Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Thị Hằng 35 NSLĐ của một quốc gia được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo giá hiện hành tính bình quân một lao động. Để so sánh NSLĐ giữa các quốc gia với nhau thì GDP được quy đổi theo sức mua tương đương (SPPP). 2. Mối quan hệ giữa lao động chất lượng cao và năng suất lao động Trong giai đoạn đầu của sự phát triển, mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tích lũy vốn vật chất; nhưng quá trình tăng trưởng và phát triển ở giai đoạn sau sẽ chủ yếu dựa vào yếu tố cải tiến công nghệ và phát triển vốn con người hay nhân lực. Trên thực tế, sự hồi phục nhanh chóng của Tây Âu cùng với Kế hoạch Marshall thời hậu chiến, sự phát triển thần kỳ của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ ở khu vực Đông Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của nhiều nước công nghiệp mới, các nước trong khối ASEAN và Trung Quốc đều phần lớn dựa vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Không chỉ có vai trò quan trọng ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: