Phép châm điều trị (Kỳ 1)
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 180.78 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Châm và cứu là hai phương pháp điều trị khác nhau. Châm là chữa bệnh bằng cách châm kim vào một số “huyệt vị” trên cơ thể người với những chiếc kim bằng kim loại, tạo thành kích thích bằng các thao tác khác nhau. Kim có nhiều loại và kích thước khác nhau, thông thường nhất là hào châm, kim ba cạnh, kim mai hoa và kim gài trong da (kim nhỉ hoàn). Cứu là chữa bệnh do tác dụng kích thích của nhiệt bằng cách hơ nóng do đốt cháy “ngải nhung” hoặc một số chất liệu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phép châm điều trị (Kỳ 1) Phép châm điều trị (Kỳ 1) Châm và cứu là hai phương pháp điều trị khác nhau. Châm là chữa bệnhbằng cách châm kim vào một số “huyệt vị” trên cơ thể người với những chiếc kimbằng kim loại, tạo thành kích thích bằng các thao tác khác nhau. Kim có nhiều loạivà kích thước khác nhau, thông thường nhất là hào châm, kim ba cạnh, kim maihoa và kim gài trong da (kim nhỉ hoàn). Cứu là chữa bệnh do tác dụng kích thích của nhiệt bằng cách hơ nóng dođốt cháy “ngải nhung” hoặc một số chất liệu khác trên các vị trí đặc hiệu ở mặt da. 1. Chọn kim và tư thế bệnh nhân Có nhiều loại kim hào châm. Phải giữ kim không bị gỉ, cong hoặc quặn mũiđể phòng các tai biến và gây đau đớn cho người bệnh. Để được thoải mái và dễ xác định huyệt, bệnh nhân cần ở trong tư thế thíchhợp đối với huyệt cần châm. Nếu bệnh nhân ở tư thế không thích hợp, dễ bị mệt lảhoặc choáng váng; những tai biến như cong kim hay gẫy kim có thể xảy ra trongtrường hợp bệnh nhân thay đổi tư thế đột ngột. Thông thường, tư thế nằm ngửathích hợp khi ta châm những huyệt vị vùng trán và mặt, ngực, bụng và mặt trướcchi dưới. Tư thế nằm sấp thích hợp khi châm các vùng chẩm, gáy, lưng – thắt lưngvà mặt sau chi dưới; tư thế nằm nghiêng dành cho khi châm các huyệt ở mặt bêncơ thể. Những huyệt ở đầu, lưng và chi trên, tư thế ngồi thoải mái cũng thích hợp. Trước khi điều trị, sát trùng da tại huyệt vị và xung quanh huyệt vị bằngcồn 700; chọn kim có chiều dài tương xứng vị trí huyệt được chọn. 2. Tiến hành châm Trong điều trị châm cứu, nếu thầy thuốc không biết cách điều khiển ngóntay và thiếu khéo léo trong thao tác, thì việc châm kim xuyên qua da cũng đã làkhó và còn gây đau cho bệnh nhân, ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả điều trị. Vì thếphải tập dượt vận dụng ngón tay và thực nghiệm phản ứng kim châm hay cảm giácchâm trên chính bản thân mình. Ta có thể tập luyện thao tác châm kim trên nhiều lớp giấy hoặc trên một gốibông nhỏ. Mới đầu tập cách xoay về kim vào ra, sau đó phối hợp cách tiến, lui vàxoay, vê kim. Khi các động tác này đã thành thạo, thầy thuốc có thể châm chochính mình để nhận thức được cảm giác kim châm. 3. Châm kim và thao tác 1) Phương pháp châm kim Nói chung, cảm giác đau khi mũi kim xuyên qua mặt da, còn khi kim đãvào sâu rồi, thì cảm giác đau không đáng kể. Để giảm bớt đau đớn, động tác châmkim qua da phải nhanh. Có nhiều cách châm kim, những cách thường dùng là: a- Châm kim có dùng ngón tay tì: Tì đầu ngón tay cái (hoặc ngón tay trỏ) của bàn tay trái vào cạnh huyệt,ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm chuôi kim. Trong khi bệnh nhân chú ý vào chỗtay trái tì bấm, ta châm kim nhanh vào huyệt vị, sát dìa đầu ngón tay tì. Phươngpháp này thường dùng khi châm kim ngắn. b- Châm kim dài: Ngón cái và ngón trỏ tay trái cầm sát phần mũi kim, cách 2 hoặc 5mm.Ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm chuôi kim. Khi mũi kim đến gần mặt da, bằngđộng tác khéo léo của ngón cái và ngón trỏ tay trái, châm kim nhanh qua da, trongkhi đó các ngón tay phải ấn chuôi kim xuống. Thân kim đã được tay trái giữ, ngóncái và ngón trỏ của tay phải tiếp tục xoay cắm kim vào sâu hơn. Phương pháp nàydùng châm kim dài. c- Châm kim nhanh qua da: Ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm thân kim, cách mũi kim 2 – 5mm ướmchính xác vào huyệt vị, châm kim nhanh qua da. Trong khi ngón cái và ngón trỏtay trái giữ phần dưới thân kim, bằng động tác hiệp đồng của ngón cái và ngón trỏtay phải, ta ấn sâu kim xuống. Các kim được xoay đẩy đến lúc kim vào sâu theoyêu cầu điều trị. Phương pháp này có thể áp dụng cho cả kim ngắn lẫn kim dài. d- Châm kim kết hợp véo da: Ngón cái và ngón trỏ tay trai véo da vùng quanh huyệt, sau đó châm nhanhkim vào huyệt bằng tay phải. Phương pháp này thích hợp cho những vị trí mỏngcơ, như các huyệt Ấn đường và Địa thương ở mặt. e- Châm kim kết hợp căng da: Ngón cái và ngón trỏ, hoặc ngón giữa tay trái căng da quanh huyệt; sau đó,dùng tay phải châm nhanh kim qua da, tới độ sâu cần thiết và theo hướng yêu cầu.Phương pháp này áp dụng ở những vị trí tổ chức da lỏng lẻo, có nhiều nếp nhănhay nếp gấp như da bụng chẳng hạn. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phép châm điều trị (Kỳ 1) Phép châm điều trị (Kỳ 1) Châm và cứu là hai phương pháp điều trị khác nhau. Châm là chữa bệnhbằng cách châm kim vào một số “huyệt vị” trên cơ thể người với những chiếc kimbằng kim loại, tạo thành kích thích bằng các thao tác khác nhau. Kim có nhiều loạivà kích thước khác nhau, thông thường nhất là hào châm, kim ba cạnh, kim maihoa và kim gài trong da (kim nhỉ hoàn). Cứu là chữa bệnh do tác dụng kích thích của nhiệt bằng cách hơ nóng dođốt cháy “ngải nhung” hoặc một số chất liệu khác trên các vị trí đặc hiệu ở mặt da. 1. Chọn kim và tư thế bệnh nhân Có nhiều loại kim hào châm. Phải giữ kim không bị gỉ, cong hoặc quặn mũiđể phòng các tai biến và gây đau đớn cho người bệnh. Để được thoải mái và dễ xác định huyệt, bệnh nhân cần ở trong tư thế thíchhợp đối với huyệt cần châm. Nếu bệnh nhân ở tư thế không thích hợp, dễ bị mệt lảhoặc choáng váng; những tai biến như cong kim hay gẫy kim có thể xảy ra trongtrường hợp bệnh nhân thay đổi tư thế đột ngột. Thông thường, tư thế nằm ngửathích hợp khi ta châm những huyệt vị vùng trán và mặt, ngực, bụng và mặt trướcchi dưới. Tư thế nằm sấp thích hợp khi châm các vùng chẩm, gáy, lưng – thắt lưngvà mặt sau chi dưới; tư thế nằm nghiêng dành cho khi châm các huyệt ở mặt bêncơ thể. Những huyệt ở đầu, lưng và chi trên, tư thế ngồi thoải mái cũng thích hợp. Trước khi điều trị, sát trùng da tại huyệt vị và xung quanh huyệt vị bằngcồn 700; chọn kim có chiều dài tương xứng vị trí huyệt được chọn. 2. Tiến hành châm Trong điều trị châm cứu, nếu thầy thuốc không biết cách điều khiển ngóntay và thiếu khéo léo trong thao tác, thì việc châm kim xuyên qua da cũng đã làkhó và còn gây đau cho bệnh nhân, ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả điều trị. Vì thếphải tập dượt vận dụng ngón tay và thực nghiệm phản ứng kim châm hay cảm giácchâm trên chính bản thân mình. Ta có thể tập luyện thao tác châm kim trên nhiều lớp giấy hoặc trên một gốibông nhỏ. Mới đầu tập cách xoay về kim vào ra, sau đó phối hợp cách tiến, lui vàxoay, vê kim. Khi các động tác này đã thành thạo, thầy thuốc có thể châm chochính mình để nhận thức được cảm giác kim châm. 3. Châm kim và thao tác 1) Phương pháp châm kim Nói chung, cảm giác đau khi mũi kim xuyên qua mặt da, còn khi kim đãvào sâu rồi, thì cảm giác đau không đáng kể. Để giảm bớt đau đớn, động tác châmkim qua da phải nhanh. Có nhiều cách châm kim, những cách thường dùng là: a- Châm kim có dùng ngón tay tì: Tì đầu ngón tay cái (hoặc ngón tay trỏ) của bàn tay trái vào cạnh huyệt,ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm chuôi kim. Trong khi bệnh nhân chú ý vào chỗtay trái tì bấm, ta châm kim nhanh vào huyệt vị, sát dìa đầu ngón tay tì. Phươngpháp này thường dùng khi châm kim ngắn. b- Châm kim dài: Ngón cái và ngón trỏ tay trái cầm sát phần mũi kim, cách 2 hoặc 5mm.Ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm chuôi kim. Khi mũi kim đến gần mặt da, bằngđộng tác khéo léo của ngón cái và ngón trỏ tay trái, châm kim nhanh qua da, trongkhi đó các ngón tay phải ấn chuôi kim xuống. Thân kim đã được tay trái giữ, ngóncái và ngón trỏ của tay phải tiếp tục xoay cắm kim vào sâu hơn. Phương pháp nàydùng châm kim dài. c- Châm kim nhanh qua da: Ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm thân kim, cách mũi kim 2 – 5mm ướmchính xác vào huyệt vị, châm kim nhanh qua da. Trong khi ngón cái và ngón trỏtay trái giữ phần dưới thân kim, bằng động tác hiệp đồng của ngón cái và ngón trỏtay phải, ta ấn sâu kim xuống. Các kim được xoay đẩy đến lúc kim vào sâu theoyêu cầu điều trị. Phương pháp này có thể áp dụng cho cả kim ngắn lẫn kim dài. d- Châm kim kết hợp véo da: Ngón cái và ngón trỏ tay trai véo da vùng quanh huyệt, sau đó châm nhanhkim vào huyệt bằng tay phải. Phương pháp này thích hợp cho những vị trí mỏngcơ, như các huyệt Ấn đường và Địa thương ở mặt. e- Châm kim kết hợp căng da: Ngón cái và ngón trỏ, hoặc ngón giữa tay trái căng da quanh huyệt; sau đó,dùng tay phải châm nhanh kim qua da, tới độ sâu cần thiết và theo hướng yêu cầu.Phương pháp này áp dụng ở những vị trí tổ chức da lỏng lẻo, có nhiều nếp nhănhay nếp gấp như da bụng chẳng hạn. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phép châm điều trị châm cứu học y học cổ truyền đông y trị bệnh bài giảng châm cứuGợi ý tài liệu liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 276 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 232 0 0 -
6 trang 181 0 0
-
120 trang 174 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 167 0 0 -
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 164 0 0 -
Tài liệu học tập Bệnh học nội khoa Y học cổ truyền
1503 trang 151 5 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 125 0 0 -
97 trang 125 0 0
-
Bài tiểu luận Triết học: Học thuyết âm dương, ngũ hành và vận dụng trong y, dược học cổ truyền
18 trang 125 0 0